Dữ liệu đầu vào cho mô hình cân bằng nước

Nhu cầu thông tin về Tài nguyên nước, đặc biệt là thông tin dự báo tài nguyên nước phục vụ đề xuất chủ trương, chính sách quản lý tài nguyên nước, xây dựng kế hoạch khai thác sử dụng tài nguyên nước thích hợp cho các ngành kinh tế đang là đòi hỏi cấp thiết. Đề tài “Nghiên cứu ứng dụng mô hình số thích hợp dự báo tài nguyên nước mặt (về mặt số lượng) cho lưu vực sông Ba” đã sử dụng mô hình Tank  để tính toán và dự báo dòng chảy tháng tại các vùng hay tiểu lưu vực trên sông Ba làm đầu vào cho mô hình cân bằng nước Mike Basin.
Hệ thống cân bằng hay vùng cân bằng nước là một hệ phức tạp bao gồm nguồn nước, các công trình thủy lợi, công trình kiểm soát và điều khiển, các hộ dùng nước cùng với sự tác động qua lại giữa chúng với môi trường. Khu cân bằng nước là một hệ thống con trong hệ thống cân bằng nước, một lãnh thổ chịu chi phối bởi nguồn nước của một hệ thống khai thác nguồn nước một bậc. Nó có thể là đơn vị hành chính gồm nhiều công trình thủy lợi nhỏ khai thác độc lập. Tiểu khu cân bằng nước là một hệ thống con trong hệ thống cân bằng nước, một lãnh thổ chịu chi phối bởi nguồn nước của một kênh nhánh hay một công trình tạo nguồn nhỏ trong cùng một hệ thống độc lập. Ô cân bằng nước hay ô thủy lợi là một phần tử cơ bản cấu thành tiểu khu cân bằng nước, một lãnh thổ chịu chi phối bởi nguồn nước của một kênh nhánh hay một trạm bơm độc lập.

04ht
Nút cân bằng: Là nút tính toán cân bằng nước hệ thống được chọn tại một điểm cuối của lãnh thổ dùng nước hay tại công trình cuối cùng trên hệ thống sông. Dựa vào nguyên lý mô phỏng của Mike Basin, bản đồ cao độ số (DEM 90 x 90m) hình thái mạng  lưới sông suối, các công trình dùng nước hiện tại (hồ chứa, thủy điện, các khu tưới, nút chuyển nước, nút cấp nước cho sinh hoạt và công nghiệp…), diện tích các tiểu lưu vực, sơ  đồ tính toán cân bằng nước cho toàn lưu vực sông Ba, được thiết lập, bao gồm: 6 nhánh; 32 nút tính toán tại các vị trí tính toán quan trọng như vị trí hồ chứa, nút tính toán, nút điều khiển, nút nhập lưu hạ, Krông H’năng, Sông Hinh, Sông Ba Hạ).
Căn cứ vào 8 vùng sử dụng nước trên lưu vực sông Ba có thể phân chia thành 8 vùng cân bằng nước như sau: Vùng thượng nguồn sông Ba nút cân bằng nước tại điểm trên dòng chính sông Ba trước nhập lưu sông nhánh Iayun với diện tích lưu vực khống chế là 3856 km2. Vùng sông Iayun với nút cân bằng nước tại cửa ra sông Iayun với diện tích
khống chế là 2850 km2. Vùng khu giữa I với nút cân bằng nước theo lượng nước nhập lưu  sông Iayun đến nhập lưu sông Krông H’năng với diện tích không chế là 2283 km2. Vùng sông Krông Hnăng nút cân bằng nước tại cửa sông Krông Hnăng với diện tích lưu vực khống chế là 1780 km2. Vùng sông Hinh nút cân bằng nước tại cửa sông với diện tích khống chế là 1040 km2. Vùng khu giữa II nút cân bằng nước theo lượng nước nhập lưu sông Krông H’năng đến nhập lưu sông Hinh với diện tích là 464 km2. Vùng khu giữa III nút cân bằng nước theo lượng nước đến từ nhập lưu sông Hinh đến thượng lưu đập Đồng Cam với diện tích là 389km2. Vùng khu giữa IV nút cân bằng từ đập Đồng Cam đến cửa sông với diện tích lưu vực là 561 km2.

Tài liệu đầu vào của mô hình Mike Basin bao gồm:
– Lưu lượng dòng chảy mô phỏng từ mô hình Tank và đã được xử lý thống kê
theo từng tiểu lưu vực theo tháng;
– Nhu cầu dùng nước hiện tại của các hộ dùng nước: thủy điện, tưới, chuyển
nước, công nghiệp…
– Các thông số hồ chứa: đường quan hệ cao độ – diện tích – dung tích, thông số
vận hành hồ chứa.
Thời gian và thủ tục hiệu chỉnh: Thời gian hiệu chỉnh mô hình: từ năm 1992-2006; và bước thời gian tính toán: theo tháng;
– Thủ tục hiệu chỉnh: Hiệu chỉnh giá trị tính toán từ mô hình Mike Basin sao
cho phù hợp với giá trị thực đo tại điểm kiểm soát Củng Sơn.
Qua kết quả mô phỏng tính toán dòng chảy tại trạm thủy văn An Khê và trạm
thủy văn Củng Sơn cho giai đoạn năm 1992-2006 trước khi có hồ chứa Ayun hạ và
công trình thủy điện sông Hinh ở hình trên cho thấy kết quả mô phỏng tốt, dòng chảy
thực đo và dòng chảy tính toán tương đối trùng khớp, sự sai lệch không đáng kể với
chỉ số mô phỏng Nash tại trạm An Khê là 93,9% và tại trạm Củng Sơn là 95,5% .