Thăm dò nước dưới đất phục vụ xây dựng nhà máy nước sạch tại KCN Đồng Văn 2, Hà Nam

Khu công nghiệp Đồng Văn II được thành lập theo quyết định số 335/2006/QĐ-UBND của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Nam ngày 22 tháng 3 năm 2006 về việc thành lập và phê duyệt dự án giao Công ty cổ phần phát triển Hà Nam làm chủ đầu xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng Khu công nghiệp Đồng Văn II, thị trấn Đồng Văn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.

Để đảm bảo nhu cầu nước cho sản xuất thì nhu cầu sử dụng nước đánh giá cần khoảng 2.500 m3/ngày đêm, nên việc đầu tư xây dựng nhà máy nước đã được các cơ quan hữu quan của tỉnh Hà Nam chấp thuận. Trong đó nước phục vụ cho sản xuất khoảng 2.000m3/ngày đêm, nước dùng để sinh hoạt cho khoảng 1.000 cán bộ công nhân viên nhà máy và phục vụ công tác cứu hỏa khoảng 500m3/ngày đêm.

Trung tâm Kỹ thuật và Tư vấn tài nguyên nước thuộc Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia – Bộ Tài nguyên và Môi trường đã triển khai các dạng công tác phục vụ việc thăm dò nước dưới đất tại đây.

Khu vực nghiên cứu đã được thành lập bản đồ địa chất thuỷ văn vùng Hưng Yên Phủ Lý tỷ lệ 1/50.000 do Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước Miền Bắc thực hiện. Ngoài ra còn có nhiều báo cáo sản xuất về việc thăm dò, tìm kiếm nước dưới đất của các đơn vị, tổ chức trong khu vực.

DL64

Trên bản đồ nước dưới đất tỉnh Hà Nam thể hiện 2 dạng tồn tại chính của nước dưới đất là nước lỗ hổng và nước khe nứt, trên mặt cắt còn thể hiện thành tạo địa chất rất nghèo nước hoặc thực tế không chứa nước. Mức độ tài liệu địa chất thủy văn của tỉnh là khá phong phú đủ để phân chia nước dưới đất ra các dạng tồn tại và các tầng chứa nước khác nhau. Nước dưới đất tại khu vực này biến đổi theo mùa rõ rệt và thường có biên độ lớn. Ngoài các tầng chứa nước trong còn tồn tại các thể địa chất rất nghèo nước hoặc thực tế không là cách nước. Do các trầm tích thuộc loại phân hệ tầng Hải Hưng trên và Vĩnh Phúc trên với thành phần hạt mịn chiếm ưu thế đá là sét, sét bột. Các loại đất đá này có hệ số thấm  rất nghèo, nhỏ mang tính chất của những tầng cách nước giữa 2 tầng chứa nước.

Kết quả tính toán trị số hạ thấp mực nước sau khi tính toán đến sự can nhiễu giữa các giếng khai thác trong vùng ảnh hưởng cho thấy sau 27 năm khai thác, hạ thấp mực nước hoàn toàn đảm bảo, việc lựa chọn vị trí thiết kế, lưu lượng khai thác cho từng giếng là hoàn toàn phù hợp. Đây là tiền đề cho việc bố trí các công trình khai thác tại KCN Đồng Văn 2 phục vụ sản xuất và sinh hoạt cho hiện tại và tương lai./.

(Mai Phú Lực)