LTS. Nước dưới đất ở hầu hết các vùng đô thị ở nước ta đã và đang bị suy thoái nghiêm trọng: nhiễm bẩn, nhiễm mặn và cạn kiệt. Để góp phần đảm bảo phát triển các đô thị một cách bền vững, cần có chiến lược và đề án cụ thể bảo vệ nguồn tài nguyên nước dưới đất. Thủ tướng Chính phủ và Bộ Tài nguyên môi trường đã phê duyệt dự án “ Bảo vệ nước dưới đất ở các đô thị lớn” để thực hiện trong giai đoạn 2013-2018. Để có các giải pháp hữu hiệu bảo vệ nước dưới đất khỏi bị suy thoái, phải xác định đúng đắn nguyên nhân mới có thể khắc phục được một cách có hiệu quả.
Đặt vấn đề
Điều 2 khoản 15 Luật Tài nguyên nước nêu: “Suy thoái nguồn nước là sự suy giảm về số lượng, chất lượng nguồn nước so với trạng thái tự nhiên hoặc so với trạng thái của nguồn nước đã được quan trắc trong các thời kỳ trước đó”. Đối với các nước dưới đất, sự suy thoái về lượng trong điều kiện tự nhiên được biểu hiện ở sự suy giảm mực nước, lưu lượng các suất lộ nước dưới đất; trong điều kiện khai thác, ngoài các biểu hiện như trên, còn suy giảm công suất khai thác, mở rộng phễu hạ thấp mực nước theo thời gian. Sự suy thoái về chất biểu hiện ở sự nhiễm bẩn, nhiễm mặn các nguồn nước dưới đất, đó là sự tăng dần các thông số đánh giá chất lượng nước làm cho nước dưới đất một phần hoặc hoàn toàn không thích hợp với mục đích sử dụng.
Các biểu hiện suy thoái
Vùng Hà Nội nói ở đây bao gồm các Quận nội thành và vùng lân cận rất giầu về tài nguyên nước dưới đất do đó đang được khai thác với số lượng lớn cung cấp cho các nhu cầu ăn uống, sinh hoạt, sản xuất công nghiệp, du lịch và dịch vụ. Sự khai thác mạnh mẽ với số lượng lớn, ngày càng tăng đã suất hiện một số biểu hiện suy thoái tài nguyên nước dưới đất.
Sự suy thoái về lượng biểu hiện rõ nhất ở sự suy giảm công suất khai thác ở các bãi giếng. Lưu lượng khai thác ở tất cả các bãi giếng ở đây đều giảm dần theo thời gian, do đó đã phải điều chỉnh công suất khai thác liên tục. Cụ thể như sau.
Lưu lượng khai thác tại các bãi giếng qua các thời kì, 103 m3/ngày.
STT |
Bãi giếng |
Công suất Thiết kế |
Lưu lượng khai thác bình quân |
Cấp phép khai thác |
Tỷ lệ đạt, % |
|||
2007 |
2008 |
2009 |
2012 |
|||||
1 |
Mai Dịch |
61 |
57,4 |
57 |
46,3 |
46,3 |
46,3 |
76 |
2 |
Ngọc Hà |
50,2 |
|
48 |
45 |
36 |
36 |
71,7 |
4 |
Hạ Đình |
28,5 |
|
|
|
23,7 |
23.5 |
82,5 |
5 |
Tương Mai |
29 |
20,6 |
20,5 |
20,5 |
20,5 |
20,5 |
68,3 |
6 |
Cáo Đỉnh |
60 |
59,1 |
52,3 |
50,1 |
56,7 |
56,7 |
89,5 |
7 |
Yên Phụ |
106 |
102 |
98 |
98 |
98 |
98 |
92,5 |
8 |
Lương Yên |
48,1 |
54 |
53,2 |
53,5 |
53,5 |
53,5 |
111,2 |
Các số liệu bảng trên cho thấy, các bãi giếng vùng ven sông Hồng như Yên Phụ, Lương Yên giảm không đáng kể, thậm chí còn tăng công suất khai thác. Các bãi giếng nằm xa sông Hồng đều bị giảm công suất khai thác, chỉ đạt 68,3 đến 89,5% so với thiết kế. Sự suy thoái về lượng còn biểu hiện ở sự giảm mực nước dưới đất theo thời gian, sự mở rộng phễu hạ thấp mực nước dưới đất. Theo tài liệu quan trắc mực nước dưới đất liên tục ở mạng cố định từ những năm 90 của thế kỉ trước đến nay cho thấy, mực nước ở các lỗ khoan quan trắc trong thời kì 1990-2005 bị suy giảm với tốc độ từ 0,3-0,5 đến 0,6-0,8m/năm, làm cho mực nước dưới đất hạ xuống rất sâu như ở Mai Dịch đến 26m, Hạ Đình đến 34m cách mặt đất. Từ năm 2005 đến nay do giảm công suất khai thác nên mực nước dưới đất không bị suy giảm nữa. Việc hạ thấp mực nước dẫn đến hình thành phễu hạ thấp bao trùm lên các công trình khai thác. Cùng với sự giảm dần mực nước theo thời gian, phễu hạ thấp mực nước cũng được mở rộng dần. Nếu lấy giới hạn vùng có độ cao mực nước thấp hơn 0 mét so với mực nước biển là vùng bị ảnh hưởng do khai thác thì diện tích vùng này vào đầu những năm 90 của thế kỉ trước chưa đến 200 km2, đến những năm đầu của thế kỷ 21 tăng lên đến trên 250 km2.
Sự suy thoái về chất biểu hiện ở sự nhiễm bẩn của một số yếu tố. Biểu hiện rõ nhất là nhiễm bẩn các hợp chất nito, cụ thể là amoni ở khu vực phía Nam thành phố. Ở vùng này, khoảng trước 1995, hàm lượng NH4+ở cả 2 tầng chứa nước còn ở dưới mức cho phép, nay đã tăng lên trên 10 g/l, trong đó tầng chứa nước qh cao hơn tầng chứa nước qp và đều có xu hướng tăng lên theo thời gian. Vùng nhiễm bẩn nặng NH4+ là khu vực nội thành ở phía Nam có diện tích khoảng trên 100 km2. Ngoài nhiễm bẩn bởi anion NH4+, nước dưới đất còn bị nhiễm bẩn bởi vật chất hữu cơ, vi khuẩn và một số chất kim loại.
Nguyên nhân suy thoái
Suy thoái về lượng do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
– Do đô thị hóa. Từ năm 1954, nội thành Hà Nội chỉ có 4 Quận là: Ba Đình, Hoàn Kiếm, Đống Đa, Hai Bà Trưng với diện tích 36,07 km2. Mãi đến những năm cuối của thế kỷ trước, nội thành mới được mở rộng: tăng số lượng các Quận và mở rộng diện tích. Vào những năm cuối thế kỉ trước, 3 quận là Tây Hồ, Cầu Giấy và Thanh Xuân ra đời đưa tổng diện tích của vùng nội thành lên 81,22 km2. Đầu thế kỉ thứ 21 thêm 2 quận nữa là Long Biên và Hoàng Mai đưa tổng diện tích của vùng nội thành lên 182,64 km2, tức là lớn gấp 5 lần diện tích của thời kì đầu. Tương lai sẽ còn được mở rộng thêm.
Ở vùng nội thành, các công trình, đường xá được xây dựng, kết quả là hầu hết diện tích bề mặt bị bê tông hóa dẫn đến triệt tiêu nguồn cung cấp cho NDĐ từ trên xuống. Việc làm móng các nhà cao tầng cũng góp phần cản trở dòng chảy dưới đất làm giảm nguồn cung cấp cho NDĐ.
– Lưu lượng khai thác nước dưới đất tăng lên rất mạnh mẽ. Năm 1954, lưu lượng nước dưới đất khai thác chỉ gần 30.000 m3/ng, sau đó tăng lên rất mạnh theo thời gian, chỉ tính riêng loại hình khai thác tập trung, trong những năm 60 tăng lên 140.000, trong những năm 80- lên gần 300.000, những năm 90 – gần 400.000, hiện nay đang khai thác khoảng gần 600.000 m3/ng. Nếu kể cả các loại hình khai thác đơn lẻ và khai thác ở vùng nông thôn thì lượng khai thác nước dưới đất hiện nay đạt khoảng trên 1 triệu m3/ng . Việc khai thác với lượng lớn như vậy gây nên sự mất cân bằng và làm suy giảm nguồn nước dưới đất.
– Bố trí các bãi giếng khai thác không hợp lý. Vùng Hà Nội do quan niệm rất phong phú về tài nguyên nước dưới đất- khoan ở đâu cũng có nước, nên trước đây đều bố trí các bãi giếng khai thác ở trong lòng thành phố với mục đích là để tiết kiệm đường ống, ngoài ra, các cơ quan, xí nghiệp sản suất-kinh doanh, các đơn vị sự nghiệp… cũng đều tự khoan để cung cấp nước. Có thể nói việc khoan giếng khai thác nước dưới đất trong thời kì qua là ồ ạt, tự phát, công tác quản lý của Nhà nước không theo kịp… Mặt khác, nhận thức của cộng đồng về tài nguyên nước còn thấp, chưa coi nước là tài sản, vì quan niệm “nước là của trời cho “ nên không có ý thức tiết kiệm, không có ý thức bảo vệ nguồn tài nguyên quý giá này.
– Một nguyên nhân nữa phải kể đến là sự biến động của điều kiện khí tượng, thủy văn: mực nước sông Hồng trong mấy chục năm qua không lên cao như trước. Tuy không gây ra lũ lụt nhưng đã làm giảm đáng kể đại lượng cung cấp cho nước dưới đất góp cũng phần không nhỏ làm suy thoái nguồn tài nguyên này.
Suy thoái về chất do các nguyên nhân sau đây:
– Chất thải tăng lên quá nhiều. Các nhà máy, xí nghiệp nhiều hơn, dân số tăng lên, mức sống người dân đô thị được cải thiện hơn, đồng nghĩa với việc thải ra rất nhiều chất thải. Các chất thải dạng lỏng không được sử lý hoặc sử lý không đạt tiêu chuẩn đều được thải ra sông, hồ. Các con sông Tô Lịch, sông Sét, sông Lừ, sông Kim Ngưu…và nhiều hồ trong lòng thành phố không còn là các sông tự nhiên xinh đẹp, đều biến thành các kênh dẫn nước thải quy tụ về phía Nam thành phố. Một số bãi chôn lấp chất thải rắn còn để trong lòng thành phố như bãi rác Tam Hiệp, bãi rác Mễ Trì, nghĩa trang Văn Điển… chúng đều là các nguồn gây ô nhiễm cho môi trường nói chung, trong đó có nước dưới đất;
– Quá trình xây dựng, sản suất nguyên vật liệu như gạch ngói đã bóc đi “ tấm áo giáp” bảo vệ nước dưới đất làm cho quá trình nhiễm bẩn tăng lên;
– Các quá trình thăm dò- khảo sát với việc khoan quá nhiều lỗ khoan, đặc biệt là các lỗ khoan khai thác nước dưới đất bị hỏng, không được trám lấp… tạo thành các lỗ thủng để đưa các chất bẩn từ trên mặt xuống tầng chứa nước một cách dễ dàng.
Lời kết.
Tài nguyên nước dưới đất ở Hà Nội hiện nay đã có những biểu hiện suy thoái rất rõ ràng. Các nguyên nhân gây nên đều do con người, duy chỉ có 1 là do thiên nhiên nhưng xét cho cùng cũng là do con người. Tuy đã muộn nhưng vẫn còn có thể cứu vãn tình thể, vẫn có các biện pháp hữu hiệu để phòng, chống. Nơi nào chưa bị suy thoái thì phòng ngừa, nơi nào đã bị suy thoái thì làm giảm và chống. Con người, sinh vật vẫn có thể tận hưởng những dòng nước trong lành.
(PGS.TS. Nguyễn Văn Đản)