Sau gần 20 năm vận hành mạng lưới Quan trắc quốc gia tài nguyên môi trường nước dưới đất vùng đồng bằng Bắc Bộ đã mang lại những kết quả theo đúng mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế – xã hội đã làm cho tài nguyên nước dưới có những biến động. Trong khi đó, mạng quan trắc hiện tại được thiết kế nhằm mục tiêu nghiên cứu động thái, những quy luật chung của nước dưới đất mà chưa bao quát, kiểm soát biến động tài nguyên nước dưới đất do các tác động từ các hoạt động phát triển kinh tế xã hội gây nên, đặc biệt là việc khoan khai thác nước. Trong khi đó, mục tiêu nhiệm vụ đặt ra cho mạng quan trắc quốc gia tài nguyên môi trường nước dưới đất vùng đồng bằng Bắc Bộ hiện nay là: ngoài nhiệm vụ nghiên cứu động thái còn phải quan trắc kiểm soát được tài nguyên nước dưới đất phục vụ công tác quản lý Nhà nước, quy hoạch sử dụng khai thác hợp lý và bền vững.
Bên cạnh vấn đề về khai thác quá mức dẫn đến cạn kiệt tài nguyên nước dưới đất, ô nhiễm nước dưới đất cũng đang trở thành vấn đề cấp bách đối với tài nguyên nước dưới đất. Tại nhiều nơi trên thế giới, tài nguyên nước mặt và tài nguyên nước dưới đất tại các tầng chứa nước nằm gần mặt đất đã được phát hiện bị ô nhiễm từ các nguồn khác nhau có liên quan đến các hoạt động của sản xuất nông nghiệp cũng như quá trình đô thị hóa. Rác thải từ quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu đã làm ô nhiễm nhiều nguồn tài nguyên nước mặt và nước dưới đất. Các hoạt động khai thác khoáng sản và tài nguyên thiên nhiên cũng được xem như một nguyên nhân làm ô nhiễm các nguồn nước trong đó có nước ngầm. Ngoài ra, sự suy giảm chất lượng nước ngầm còn được gây ra do quá trình xâm nhập mặn của nước biển.
Đề tài Khoa học và Phát triển công nghệ cấp cơ sở “ Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn bổ sung, hoàn thiện mạng lưới quan trắc tài nguyên nước vùng đồng bằng Bắc Bộ” có thể nêu lên các kết luận như sau:
Đề xuất việc bổ sung, hoàn thiện mạng lưới quan trắc tài nguyên nước dưới đất vùng đồng bằng Bắc Bộ dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn.
Hoàn thiện các điểm quan trắc cũ ở 11 điểm với 11 công trình mà trước đây chỉ thiết kế quan trắc có 01 tầng, nay bổ sung thêm tầng chứa nước ở bên dưới là tầng chứa nước Pleistocen và Neogen.
Xây dựng mới 15 điểm với 23 công trình quan trắc có danh sách thống kê ở bảng 1 và vị trí ở bản đồ mạng lưới quan trắc kèm theo, cụ thể như sau:
Hoàn chỉnh tuyến quan trắc cắt ngang đồng bằng đi qua Hà Nội ở 2 đầu thuộc các huyện Hiệp Hòa tỉnh Bắc Giang và huyện Chương Mỹ Hà Nội gồm 6 điểm với 6 công trình quan trắc vào tầng chứa nước qp;
Hoàn chỉnh tuyên quan trắc cắt qua sông Đuống gồm 3 điểm với 3 công trình ở các huyện Tiên Du và Thuận Thành của tỉnh Bắc Ninh;
Lập tuyến quan trắc mới theo phương gần Đông – Tây từ thị xã Tam Điệp tỉnh Ninh Bình ( vùng cung cấp ) đến huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định ( vùng thoát ) gồm 4 điểm với 9 công trình;
Bổ sung 1 điểm quan trắc với 3 công trình ở xã Duyên Hải, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, nơi nước dưới đất thoát ra từ tầng chứa nước Neogen làm cho mực nước của các tầng chứa nước bên trên dâng cao;
Bổ sung 1 điểm quan trắc với 3 công trình ở thị trấn Tiên Lãng, huyện Tiên Lãng, tp. Hải Phòng để tạo tuyến quan trắc phương Đông Bắc cắt ngang thấu kính nước nhạt ở đây.
Home Công trình dự án Nhiệm vụ chuyên môn hoàn thành Hoàn thiện mạng lưới quan trắc tài nguyên nước dưới đất vùng...