Ngày nay, nước đóng vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống cũng như các hoạt động phát triển kinh tế của con người. Việc bảo tồn và duy trì nguồn nước luôn là một trong những vấn đề nóng được cả thế giới quan tâm. Trong vòng hai thập kỷ trở lại đây, ngày càng nhiều các hội thảo, các cuộc họp ở các quy mô khác nhau bàn về vấn đề quy hoạch và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn tài nguyên đang dần cạn kiệt này.
Theo Điều 2 Luật Tài nguyên nước Việt Nam (1998) quy định “Tài nguyên nước (của Việt Nam) bao gồm các nguồn nước mặt, nước mưa, nước dưới đất, nước biển thuộc lãnh thổ Việt Nam”. Như vậy, ta có thể hiểu tài nguyên nước được hình thành từ hai nguồn chính là nước mặt (nước mưa, nước tại các ao hồ, sông suối…) và nước dưới đất (nước trong các mạch ngầm).Giữa nước mặt và nước dưới đất có mối quan hệ qua lại lẫn nhau và luân phiên có sự bổ sung cho nhau trong những điều kiện nhất định.
Đảo Quan Lạn là một đảo nằm trong quần thể các đảo tại tỉnh Quảng Ninh, do điều kiện địa lý nằm cách xa đất liền nên việc tìm kiếm và khai thác nguồn nước ngọt gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa, theo điều tra nghiên cứu của các nhà khoa học, tổng trữ lượng khai thác tiềm năng nước dưới đất trên các đảo thuộc khu vực Đông Bắc khoảng 78.838 m3/ngày đêm. Trong đó, với tốc độ sử dụng nước như hiện nay, tính toán dự báo trữ lượng có thể khai thác trên đảo Quan Lạn tại 2 khu vực: xã Quan Lạn với lưu lượng khai thác 600m3/ngày và khu vực xã Minh Châu với lưu lượng khai thác 1.200 m3/ngày. Với trữ lượng khai thác dự báo này, sau thời gian 27 năm, trị số hạ thấp mực nước tại các giếng đều nhỏ hơn trị số hạ thấp mực nước cho phép của tầng chứa nước đệ tứ. Như vậy, khả năng xâm nhập mặn là rất cao. Do vậy, cần phải bổ sung trữ lượng nước dưới đất cho các đảo này để đảm bảo nguồn nước ngọt đáp ứng tiêu chí về lưu lượng và chất lượng, phục vụ cho đời sống sinh hoạt của người dân trên đảo.
Để ngăn chặn sự xâm nhập mặn trên các đảo đồng thời tạo điều kiện làm ngọt hóa nguồn nước, Ths Triệu Đức Huy đã cùng với các nhà nghiên cứu có kinh nghiệm trong lĩnh vực tài nguyên nước đã bắt tay thực hiện đề tài: “Nghiên cứu mô hình trữ nước mưa bổ sung nhân tạo (BSNT) cho nước dưới đất đảm bảo phát triển kinh tế xã hội các đảo khu vực đông bắc Việt Nam” – Thử nghiệm tại đảo Quan Lạn”. Đây được xem là đề tài có tính thực tiễn cao, tuy là lần đầu tiên được áp dụng thử nghiệm tại một đảo song đã đem lại những kết quả vô cùng khả quan trong đó phải kể đến các kết quả sau:
Thứ nhất, đề tài đã xác lập được các cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc lưu trữ nước mưa bổ sung nhân tạo cho nước dưới đất tại các đảo thuộc khu vực Đông bắc Việt Nam bao gồm các cơ sở về điều kiện địa chất địa mạo, địa chất thủy văn, địa chất công trình, cơ sở về tài nguyên nước, cơ sở về hiện trạng khai thác và sử dụng tài nguyên nước và cơ sở về điều kiện kinh tế – xã hội tại các đảo. Trên cơ sở các giải pháp công nghệ bổ sung nhân tạo nước dưới đất đã được áp dụng trên thế giới trong nước, căn cứ vào cơ sở khoa học và thực tiễn đã được xác lập, đề tài đã lựa chọn được 5 giải pháp công nghệ lưu trữ nước mưa BSNT cho nước dưới đất tại các đảo thuộc khu vực Đông Bắc bao gồm:
+ Giải pháp làm giảm tốc độ dòng chảy mặt, tăng thời gian bổ sung dòng chảy mặt cho nước dưới đất: Áp dụng trên các sườn dốc thoải ở các đảo phân bố các trầm tích cát kết, bột kết như đảo Trà Bản, Cô Tô, Vĩnh Thực.
+ Giải pháp công nghệ dùng hào thu giữ nước mưa trên các sườn dốc;
+ Giải pháp công nghệ bồn thấm kết hợp giếng khoan hấp thu nước: Áp dụng trên tất cả các đảo thuộc khu vực Đông Bắc như đảo Quan Lạn, đảo Trà Bản, đảo Trần.
+ Giải pháp công nghệ dùng giếng bổ sung cho nước dưới đất: Áp dụng trên tất cả các đảo thuộc khu vực Đông Bắc nhất là các khu vực ven đồi núi, nơi tập trung các trầm tích, sườn tích do đó khả năng cung cấp nước mưa cho nước dưới đất gặp nhiều khó khăn.
+ Giải pháp công nghệ bổ sung nhân tạo bằng hồ chứa.
Thứ hai, Đề tài này cũng đã nghiên cứu và xác định được tổng lượng nước sinh ra từ mưa tại các đảo khu vực Đông Bắc là 609,55 m3/năm. Đây là nguồn cung cấp nước dồi dào cho các hồ trên đảo và nước dưới đất. Tuy nhiên do lượng mưa phân bố không đồng đều cả về lượng và vùng do đó cần có những giải pháp thích hợp để thu gom lượng nước mưa vào các hồ chứa.
Từ những thành công của kết quả nghiên cứu và những hiệu quả đạt được từ việc triển khai BSNT nước dưới đất chúng, nhóm tác giả hy vọng rằng, mô hình này cần được triển khai phổ biến ở tất cả các đảo của Việt Nam. Việc BSNT nước dưới đất ngoài việc làm tăng trữ lượng nguồn tài nguyên nước mà còn làm cải thiện chất lượng nước, giảm nguy cơ xâm nhập mặn vốn là nguy cơ tiềm tàng thường xảy ra ở các vùng ven biển và hải đảo./.
(Nhâm Nguyễn – TT DLQH&ĐT TNN)