Hội thảo thủy địa hóa của dự án IGPVN

Ngày 07/09/2023, tại Hà Nội, Trung tâm Quy hoạch và điều tra tài nguyên nước đã tổ chức hội thảo thủy địa hóa của dự án IGPVN. Hội thảo nhằm giới thiệu kết quả phân tích thành phần hóa học của mẫu nước dưới đất tại Đồng bằng Sông Cửu Long tới đông đảo các chuyên gia của NAWAPI.

Tại hội thảo, Ông Triệu Đức Huy (Phó Tổng Giám đốc NAWAPI) hoan nghênh tất cả những người tham gia và nhấn mạnh rằng các khía cạnh chất lượng nước ngầm sẽ ngày càng trở nên quan trọng, bao gồm cả công việc của NAWAPI. Ông Andreas Renck, Trưởng nhóm BGR, nhấn mạnh rằng nước ngầm sẽ là nền tảng quan trọng cho khả năng chống chịu khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long và hy vọng rằng đánh giá cuối cùng về dữ liệu thu thập được sẽ đưa ra kết luận cho việc quản lý nước ngầm trong tương lai.

Tiếp đó, Dr. Anke Steinel đã chỉ ra rằng thành phần hóa học nước ngầm, các chất đồng vị và giá trị 14C không thể hiện một mô hình nhất quán đối với các tầng chứa nước hoặc một xu hướng khu vực rõ ràng. Do đó, dữ liệu được diễn giải sâu hơn bằng cách sử dụng phương pháp tiếp cận toàn cầu (tức là một hệ thống tầng chứa nước được kết nối với nhau thay vì một số tầng chứa nước riêng biệt).

Dr. Karsten Osenbrück đã mô tả rằng có thể có ba loại nước (hoặc thành phần cuối cùng) dựa trên mô hình hóa với PHREEQC:

  • EM1: Nước dưới đất nhạt ở giai đoạn tiến hóa địa hóa cao hơn với độ pH và carbon vô cơ hòa tan cao hơn
  • EM2: Nước dưới đất nhạt ở thời kỳ đầu tiến hóa địa hóa có pH thấp do sự hòa tan pyrit ở vùng chưa bão hòa
  • EM3: Nước biển tiếp xúc với CO2 trong đất và/hoặc sau khi hòa tan pyrit hiện bị giữ lại dưới dạng nước biển chôn vùi trong các lớp có độ dẫn thủy lực thấp

Hai cơ chế hòa trộn chính của ba loại nước này là trao đổi khuếch tán phân tử giữa EM2 + EM3 và hòa trộn EM1 + EM3 do khoan giếng và khai thác nước ngầm. Dựa trên kết quả định tuổi bằng cacbon phóng xạ, các tương tác chắc hẳn đã diễn ra trong các trầm tích trẻ hơn, nơi cacbonat cũng như chất hữu cơ vẫn còn chứa 14C.

Các thảo luận tiếp theo nhấn mạnh sự cần thiết phải đánh giá thêm dữ liệu để xác định liệu có thể phát hiện được các đường dẫn dòng chảy trong khu vực hay không và so sánh các kết quả này với kết quả của các nghiên cứu khác.

Tác giả: Nawapi.gov.vn