Tầm quan trọng của mạng quan trắc tài nguyên nước

Tài nguyên nước là một trong những nguồn tài nguyên quan trọng và thiết yếu đối với sự sống của con người và sự phát triển kinh tế – xã hội. Việc quản lý và bảo vệ tài nguyên nước đòi hỏi sự quan sát và giám sát liên tục. Mạng quan trắc tài nguyên nước đóng vai trò then chốt trong việc cung cấp dữ liệu chính xác và kịp thời, từ đó hỗ trợ các quyết định quản lý, quy hoạch và phát triển bền vững.

Mạng quan trắc tài nguyên nước (QTTNN) là một thành phần của mạng quan trắc tài nguyên môi trường. Thông tin quan trắc TNN ngày càng quan trọng và được nhà nước, các cấp lãnh đạo, Bộ Tài nguyên và Môi trường quan tâm đầu tư và hàng năm cấp kinh phí duy trì quan trắc. Mạng quan trắc quốc gia tài nguyên nước do Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia (TNNQG) quản lý, vận hành tính đến tháng 5 năm 2024 bao gồm 910 công trình quan trắc tài nguyên nước dưới đất và 6 trạm quan trắc tài nguyên nước mặt trên toàn quốc.

Cơ sở dữ liệu quan trắc của mạng trong nhiều năm qua đã được các cơ quan từ Trung ương đến địa phương sử dụng vào các việc tính toán tài nguyên nước, làm cơ sở xây dựng các quy hoạch, phân bổ và quản lý tài nguyên nước quốc gia. Trong công tác quan trắc, tính liên tục của cơ sở dữ liệu theo thời gian là cơ sở quan trọng để đánh giá xu hướng, dự báo, cảnh báo tài nguyên nước, giúp các cơ quan quản lý nhà nước có được cơ sở để quản lý, phân bổ khai thác sử dụng tài nguyên nước hợp lý, bền vững, đóng góp vào việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Vì vậy, có thể khẳng định quan trắc tài nguyên nước là một nhiệm vụ cần thiết phải được tiến hành thường xuyên và việc quản lý, vận hành hệ thống phải đảm bảo được tính chân thực, khách quan, các yếu tố quan trắc phải đáp ứng được các yêu cầu mục tiêu đề ra.

Cơ sở dữ liệu quan trắc từ mạng QTTNN đã được sử dụng rộng rãi bởi các cơ quan từ Trung ương đến địa phương trong nhiều năm qua. Dữ liệu này đóng vai trò quan trọng trong việc tính toán tài nguyên nước, xây dựng các quy hoạch, phân bổ và quản lý tài nguyên nước quốc gia. Tính liên tục của cơ sở dữ liệu theo thời gian là cơ sở quan trọng để đánh giá xu hướng, dự báo và cảnh báo tài nguyên nước, từ đó giúp các cơ quan quản lý nhà nước có cơ sở để quản lý, phân bổ khai thác và sử dụng tài nguyên nước một cách hợp lý và bền vững.

Mục tiêu của việc vận hành hệ thống quan trắc quốc gia tài nguyên nước là đáp ứng nhu cầu thông tin về số lượng, chất lượng và biến động tài nguyên nước mặt, nước dưới đất phục vụ quản lý nhà nước và yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội.

1. Quản lý và Chỉ đạo: Quản lý, chỉ đạo điều hành toàn bộ mạng quan trắc quốc gia tài nguyên nước.

2. Vận Hành và Quan Trắc: Vận hành đo đạc, quan trắc mạng quan trắc tài nguyên nước hiện có, đảm bảo an toàn công trình quan trắc theo hướng dẫn của các thông tư và đề cương nội dung nhiệm vụ được phê duyệt.

3. Xử Lý Dữ Liệu: Tổng hợp, xử lý số liệu quan trắc, cập nhật cơ sở dữ liệu quan trắc.

4. Phân Tích và Dự Báo: Phân tích, dự báo, cảnh báo xác định diễn biến tài nguyên nước, dự báo xu thế biến đổi tài nguyên nước theo chu kỳ ngắn và dài hạn cho các lưu vực sông, kịp thời đưa ra các cảnh báo, dự báo về biến đổi tài nguyên nước.

5. Xuất Bản Thông Tin: Thành lập, in ấn, xuất bản các bản tin thông báo, dự báo, cảnh báo và niên giám tài nguyên nước để phục vụ công tác tính toán, quản lý và quy hoạch tài nguyên nước trên phạm vi toàn quốc.

Giai đoạn 6 tháng đầu năm 2024, các công trình bị hỏng đầu đo hiện phải chuyển sang quan trắc thủ công để đảm bảo không bị gián đoạn theo đúng quy định kỹ thuật, vì vậy đề xuất ngoại nghiệp tính theo thực tế, nội nghiệp tính theo thực tế đo thủ công. Khi các công trình có đầu đo gặp sự cố, Các đơn vị thực hiện đã chủ động bảo hành, bảo dưỡng và sửa chữa các thiết bị trên, một số thiết bị đã được sửa chữa và lắp đặt trở lại phục vụ quan trắc bán tự ghi từ 1 tháng 7 năm 2024. Tuy nhiên, một số thiết bị sử dụng đã lâu, bị hỏng không thể sửa chữa, đơn vị chưa có kinh phí để mua lắp bù. Để đảm bảo chuỗi dữ liệu quan trắc được liên tục, phục vụ công tác quản lý tài nguyên nước, kịp thời cung cấp thông tin cho các cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên nước ra quyết định quản lý nguồn nước liên tỉnh, liên quốc gia nên các công trình đó được chuyển từ chế độ đo tự động và bán tự động sang chế độ đo thủ công dẫn đến giảm khối lượng công tác ngoại nghiệp của mạng quan trắc tự ghi bán tự động, giảm nội nghiệp xử lý số liệu và tăng khối lượng quan trắc ngoại nghiệp của mạng quan trắc thủ công.

Năm 2024,Công tác quan trắc tài nguyên nước được Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia thực hiện tại các công trình quan trắc tài nguyên nước ở 5 vùng: đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ. Công tác thông báo, dự báo, cảnh báo tài nguyên nước được thực hiện trên 13 lưu vực sông chính bao gồm: Bằng Giang – Kỳ Cùng, Hồng – Thái Bình, Mã, Cả, Hương, Vu Gia – Thu Bồn, Trà Khúc, Kôn – Hà Thanh, Ba, Sê San, Srê Pốk, Đồng Nai, Cửu Long và các lưu vực sông ven biển khác như Gianh, Thạch Hãn. Các hoạt động này cũng bao gồm các tỉnh, thành phố có công trình và trạm quan trắc tài nguyên nước.

Mạng quan trắc tài nguyên nước là một nhiệm vụ cần thiết và phải được tiến hành thường xuyên. Việc quản lý và vận hành hệ thống phải đảm bảo tính chân thực, khách quan và đáp ứng được các yêu cầu mục tiêu đề ra. Đây là nền tảng quan trọng để quản lý, bảo vệ và sử dụng bền vững tài nguyên nước, đóng góp vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.