Báo cáo kết quả giai đoạn I đề án bảo vệ nước dưới đất ở các đô thị lớn

Ngày 18/10, Thứ trưởng Bộ TN&MT Lê Công Thành đã làm việc với Trung tâm Quy hoạch và Điều tra Tài nguyên nước quốc gia về kết quả thực hiện Giai đoạn I và Kế hoạch triển khai Giai đoạn II Đề án Bảo vệ nước dưới đất ở các đô thị lớn.

img_4540

 Ông Triệu Đức Huy – Phó Tổng Giám đốc Trung tâm Quy hoạch và Điều tra Tài nguyên nước Quốc gia cho biết: Đề án “Bảo vệ nước dưới đất ở các đô thị lớn” – Giai đoạn I (sau đây gọi tắt là Đề án) được Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước Quốc gia chủ trì tổ chức thực hiện từ năm 2013 đến năm 2018. Đến nay, về cơ bản đã hoàn thành giai đoạn I của Đề án theo mục tiêu, nhiệm vụ đã đặt ra.

 

 Theo ông Triệu Đức Huy, việc Điều tra, đánh giá tài nguyên nước dưới đất các đô thị được thực hiện ở tất cả các đô thị. Kết quả điều tra đạt được trong giai đoạn 1 đã làm sáng tỏ cấu trúc, điều kiện, thông số địa chất thủy văn của các tầng chứa nước cần bảo vệ; Xác định được sự phân bố, miền cung cấp, vận động và thoát của các tầng chứa nước cần bảo vệ; Xác định mối quan hệ thủy lực giữa nước mặt và nước dưới đất, giữa các tầng chứa nước cần bảo vệ; Xác định tiềm năng, trữ lượng có thể khai thác của các tầng chứa nước cần bảo vệ; Xác định ranh giới nhiễm mặn, các vùng nước dưới đất bị ô nhiễm.

img_4546

Ông Triệu Đức Huy dẫn chứng kết quả điều tra ở đô thị Hà Nội cho thấy: Toàn thành phố có 16 tầng chứa nước, trong đó có 4 tầng chứa nước chính cần bảo vệ là Holocen (qh); Pleistocen trên (qp2); Pleistocen dưới (qp1) và Pliocen (n2). Tổng tiềm năng tài nguyên nước dưới đất toàn đô thị là 11.025.947m3/ngày; trong đó, phần nước nhạt là 10.042.588m3/ngày, phần nước mặn là 983.359m3/ngày. Trữ lượng có thể khai thác phần nước nhạt là 4.076.365m3/ngày. Chất lượng nước về cơ bản có thể đáp ứng các mục đích ăn uống sinh hoạt và sản xuất, một số khu vực trong các tầng chứa nước qh, qp1 và qp2 hàm lượng Fe, Mn, As và NH4+ vượt so với giới hạn cho phép. Một số khu vực phía Nam thuộc huyện Thường Tín, Phú Xuyên, Ứng Hòa nước bị nhiễm mặn. Nguồn cung cấp chủ yếu cho các tầng từ nước mưa ngấm xuống ở các vùng lộ, là nước mặt sông, hồ thấm qua “cửa sổ địa chất thủy văn”, nước từ ranh giới tiếp xúc phần rìa đá gốc chảy vào và lượng nước thấm xuyên từ tầng chứa nước bên trên, và nước thấm theo các đứt gãy kiến tạo.

img_4542

Về khả năng tự bảo vệ, các tác động, nguyên nhân, con đường gây cạn kiệt, ô nhiễm và nhiễm mặn nước dưới đất, qua khảo sát cũng chỉ ra được một số kết quả đáng ghi nhận. Khả năng tự bảo vệ của các tầng chứa nước tầng chứa nước qh, khu vực có khả năng tự bảo vệ thấp phân bố tại 13 vùng với diện tích 1.073km2.

 

Ông Triệu Đức Huy cho biết thêm, kết quả điều tra và đánh giá nguy cơ cạn kiệt nước dưới đất cho thấy, vùng cạn kiệt nước dưới đất trong tầng chứa nước Holocen có diện tích khoảng 306,1 km2 phân bố chủ yếu ở các khu vực: Cầu Giấy, Ba Đình, Thanh Xuân, Bắc Từ Liêm, Đan Phượng, Phúc Thọ,… Ô nhiễm nước dưới đất: Kết quả điều tra và đánh giá cho thấy hiện nay trên phạm vi đô thị có 2.085 nghĩa trang… Với sự phân bố, quy mô và tính chất của các nguồn thải nêu trên, căn cứ vào khả năng tự bảo vệ của các tầng chứa nước đã xác định 5 vùng có nguy cơ ô nhiễm cao đến nước dưới đất với diện tích 426km2; 3 vùng có nguy cơ ô nhiễm trung bình với diện tích 1.097km2; 3 vùng có nguy cơ ô nhiễm thấp với diện tích 3.268km2.

 

Ông Triệu Đức Huy cho hay: Trên cơ sở đánh giá đầy đủ và chi tiết hiện trạng nước dưới đất cũng như các vấn đề tài nguyên nước dưới đất ở 09 đô thị lớn, trọng điểm của nước ta, Đề án đã đề xuất được các giải pháp kỹ thuật bảo vệ, phòng ngừa, hạn chế, giảm thiểu tình trạng cạn kiệt, ô nhiễm và nhiễm mặn nước dưới đất ở từng đô thị. Các giải pháp kỹ thuật bảo vệ tài nguyên nước dưới đất bao gồm: Quy hoạch vùng bảo vệ miền cấp, đới bảo vệ công trình khai thác nước dưới đất; Quy hoạch vùng hạn chế khai thác nước dưới đất; Quy hoạch khai thác sử dụng tài nguyên nước dưới đất; Quy hoạch xây dựng, hoàn chỉnh mạng quan trắc, giám sát tài nguyên nước dưới đất và Bổ sung nhân tạo cho nước dưới đất.

 

Đề án cũng đã xây dựng được phần mềm cơ sở dữ liệu hoàn chỉnh, tích hợp đầy đủ toàn bộ cơ sở dữ liệu về tài nguyên nước dưới đất ở 9 đô thị lớn, trọng điểm của nước ta. Phần mềm cơ sở dữ liệu được tích hợp, kết nối các thông tin cơ sở dữ liệu của mạng quan trắc Quốc gia và mạng quan trắc địa phương do đó có thể dễ dàng tra cứu, sử dụng và cập nhật các thông tin về tài nguyên nước phục vụ hiệu quả công tác quản lý nhà nước và bảo vệ tài nguyên nước.

 

Trên cơ sở kết quả thi công giai đoạn I, Đề án đã xây dựng được các hướng dẫn kỹ thuật bao gồm: Hướng dẫn kỹ thuật điều tra nước dưới đất đô thị; Hướng dẫn bảo vệ nước dưới đất đô thị; Hướng dẫn kỹ thuật về xây dựng vùng cấm, vùng hạn chế xây dựng mới công trình khai thác nước dưới đất; Hướng dẫn kỹ thuật xây dựng vùng và đới bảo vệ công trình khai thác nước dưới đất; Hướng dẫn kỹ thuật xây dựng và vận hành mạng quan trắc nước dưới đất trong hệ thống mạng quan trắc tài nguyên nước quốc gia; Hướng dẫn kỹ thuật bổ sung nhân tạo cho nước dưới đất. “Các hướng dẫn kỹ thuật này đã trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần để các cơ quan nhà nước ban hành hệ thống các quy định kỹ thuật, định mức kinh tế kỹ thuật, đơn giá ở lĩnh vực điều tra tài nguyên nước dưới đất, đồng thời cũng là các tài liệu hết sức hữu ích trong quá trình triển khai bảo vệ nước dưới đất ở các đô thị lớn giai đoạn tiếp theo đảm bảo khả thi và hiệu quả” – ông Triệu Đức Huy thông tin.

 

Tại cuộc họp, ông Tống Ngọc Thanh – Tổng Giám đốc Trung tâm Quy hoạch và Điều tra Tài nguyên nước quốc gia nhấn mạnh: Kết quả của Đề án đã đánh giá đầy đủ nhất về hiện trạng tài nguyên nước dưới đất ở các đô thị lớn, đồng thời đề xuất được các giải pháp kỹ thuật để bảo vệ, phòng ngừa, hạn chế, giảm thiểu tình trạng cạn kiệt, ô nhiễm và nhiễm mặn nước dưới đất cho các đô thị lớn. Đây sẽ là sản phẩm phục vụ hữu ích cho yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội ở các đô thị trong thời gian tới.

 

Ông Tống Ngọc Thanh kiến nghị Bộ TN&MT chỉ đạo các đơn vị liên quan sớm hoàn thiện hồ sơ và sản phẩm, đưa vào chương trình hỗ trợ quản lý của Cục quản lý Tài nguyên nước để chuyển giao cho địa phương. Bởi lẽ, qua khảo sát và đánh giá, hiện nay các đô thị Hà Nội, TP.HCM khai thác quá mức. Sản phẩm của đề án này đáp ứng cho việc bảo vệ tài nguyên nước tại các đô thị này. Sau khi hoàn thiện sẽ tổ chức hai đợt bàn giao cho khu vực phía Bắc và phía Nam. Trung tâm kiến nghị  Bộ TN&MT cho phép triển khai tiếp giai đoạn II ở 18 đô thị còn lại.

 

Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Thứ trưởng Lê Công Thành đánh giá cao nỗ lực của Trung tâm Quy hoạch và Điều tra Tài nguyên nước quốc gia trong việc hoàn thành giai đoạn I của Đề án theo đúng mục tiêu và nhiệm vụ đề ra. Thứ trưởng Lê Công Thành cũng đề nghị Trung tâm sớm hoàn thiện hồ sơ giai đoạn 1 và xây dưng đề cương giai đoạn 2 trình lãnh đạo Bộ xem xét.

 

Theo Quyết định phê duyệt của Bộ Tài nguyên và Môi trường, thời gian thực hiện Đề án từ năm 2013 – 2020, trong đó giai đoạn I thực hiện tại 9 đô thị trọng điểm bao gồm: Hà Nội, Thái Nguyên, Hải Dương, Quy Nhơn, Vũng Tàu, Buôn Mê Thuột, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ và Mỹ Tho. Đây là một Đề án lớn, trọng điểm được Bộ giao cho Trung tâm chủ trì và có sự tham gia của Cục quản lý Tài nguyên nước. Mục tiêu của Đề án này là: Trên cơ sở đánh giá nguồn nước dưới đất ở các đô thị lớn, đề xuất các giải pháp kỹ thuật để bảo vệ, phòng ngừa, hạn chế, giảm thiểu tình trạng cạn kiệt, ô nhiễm và nhiễm mặn nước dưới đất cho các đô thị lớn.

(Theo baotainguyenmoitruong.vn)