Việc quản lý, vận hành hồ chứa thủy lợi gặp nhiều thách thức do biến đổi khí hậu khiến tần suất và cường độ mưa lũ tăng. Do đó, cần tăng cường thể chế, chính sách trong quản lý, đầu tư, bảo vệ công trình hồ chứa, đập dâng. Đồng thời nâng cao năng lực thông tin, cảnh báo, dự báo nguồn nước và đưa ra kịch bản cắt lũ, xả lũ phù hợp, bảo đảm an toàn cho vùng hạ du…
Đây là thông tin được đưa ra tại Diễn đàn “Nâng cao hiệu quả thông tin, cảnh báo, đảm bảo vận hành an toàn đập, hồ chứa nước trong tình hình mới” do Cục Thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – NN&PTNT), Viện Quy hoạch Thủy lợi, Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam phối hợp với Báo Nông nghiệp Việt Nam tổ chức sáng 19/11.
Diễn đàn hướng tới mục tiêu nâng cao vai trò và hiệu quả của các hoạt động truyền thông, thông tin và cảnh báo sớm, nhằm bảo đảm vận hành an toàn đập, hồ chứa nước tại Việt Nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp.
Thực trạng hồ chứa tiềm ẩn nhiều nguy cơ
Theo thống kê của Cục Thủy lợi, hiện cả nước có 7.315 đập, hồ chứa thủy lợi (592 đập dâng, 6.723 hồ chứa) với tổng dung tích trữ khoảng 15,2 tỷ m3 ( chưa tính các hồ chứa thủy điện). Các hồ chứa thủy lợi “gánh” trên vai nhiều nhiệm vụ trọng yếu như: Cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, sinh hoạt kết hợp cắt, giảm lũ và phục vụ đa mục tiêu như cấp nước phát điện, tạo không gian phát triển điện mặt trời, nuôi trồng thủy sản, phát triển du lịch…
Tuy nhiên, hệ thống hồ, đập của Việt Nam hiện đang phải đối mặt với hàng loạt thách thức. Mưa lũ bất thường, lũ quét do biến đổi khí hậu và nhiều công trình đã xuống cấp gây ra nguy cơ lớn về an toàn
Chia tại Diễn đàn, ông Đỗ Văn Thành, Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi cho hay, nhiều đập, hồ chứa của nước ta đã xây dựng hơn 30 năm, xảy ra hư hỏng xuống cấp, bồi lắng lòng hồ.
Quang cảnh Diễn đàn
Hơn nữa, một số hồ lớn đã được xây dựng bản đồ ngập lụt nhưng chưa được đánh giá năng lực thoát lũ hạ du; nhiều hồ chứa nhỏ chưa có phương án đảm bảo an toàn hồ đập và phòng lũ hạ du. Hành lang thoát lũ ở hạ du của một số hồ chứa lớn bị xâm lấn, dòng chảy co hẹp, không đảm bảo thoát lũ thiết kế, gây ra úng ngập hạ du khi vận hành xả lũ.
Bên cạnh đó, công tác dự báo, cảnh báo mưa, lũ, nguồn nước đến hồ hay tổ chức bộ máy quản lý, khai thác; công tác hiện đại hóa quản lý, vận hành, đảm bảo an toàn đập còn hạn chế…
Vận hành an toàn đập, hồ chứa nước trong tình hình mới
Phát biểu tại diễn đàn, Tổng Biên tập Báo Nông nghiệp Việt Nam Nguyễn Ngọc Thạch chia sẻ: Công tác bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước còn bộc lộ nhiều hạn chế. Điều này thể hiện rõ trong sau cơn bão số 3 vừa qua. Do đó, đảm bảo vận hành an toàn đập, hồ chứa nước trong tình hình mới là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết.
Theo ông Nguyễn Ngọc Thạch, trong tình hình mới hiện nay, cần có những giải pháp đồng bộ về xây dựng, hoàn thiện chính sách. Rà soát, hoàn thiện hệ thống các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật, định mức kinh tế kỹ thuật phục vụ khảo sát, thiết kế, thi công, quản lý vận hành đập, hồ chứa nước phù hợp với tình hình mới. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ mới như hệ thống quan trắc tự động và các công cụ hỗ trợ ra quyết định vận hành… Vì thế, Diễn đàn hôm nay hướng đến việc tăng cường nhận thức, thúc đẩy hợp tác và ứng dụng công nghệ vào công tác quản lý an toàn hồ đập tại Việt Nam.
Với sự tham gia và đóng góp của các nhà quản lý, nhà khoa học, chuyên gia, doanh nghiệp và cơ quan báo chí, diễn đàn kỳ vọng đưa ra những giải pháp thiết thực, góp phần giảm thiểu rủi ro và đảm bảo an toàn nguồn nước cho các công trình thủy lợi trên cả nước.
Phát biểu tại Diễn đàn, TS Hoàng Văn Thắng, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chủ tịch Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam cho rằng, để đảm bảo hoạt động an toàn hồ đập, trước tiên phải đảm bảo công trình “có chủ”, đi cùng với đó là các bộ quy chuẩn, tiêu chuẩn và giải pháp đảm bảo tài chính cho quản lý hồ đập.
Bên cạnh đó, cần nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý, trong đó chú trọng năng lực quan trắc, phân tích số liệu đo đạc để phát hiện rủi ro từ sớm. Đồng thời các hồ đập cần được đầu tư, nâng cấp, nâng cao năng lực xả lũ để đảm bảo hoạt động an toàn trong tình hình.
Nhấn mạnh việc đảm bảo an toàn đập cần phải với an toàn hạ du, cụ thể là xây dựng hệ thống cảnh báo, hệ thống bản đồ ngập lụt và dựa vào cộng đồng. TS Hoàng Văn Thắng khẳng định, cần phải nâng cao năng lực nghiên cứu, dự báo về mưa lũ, đặc biệt là khả năng xuất hiện mưa bão cường độ cao, hay sự dịch chuyển thời gian mưa. Cùng với đó việc đảm bảo an toàn đập phải gắn với khái niệm quản lý lũ theo lưu vực sông, quản lý vận hành liên hồ chứa, quản lý vận hành thời gian thực.
Ông Lương Văn Anh – Phó Cục trưởng Cục Thủy lợi cũng cho hay, về mặt pháp lý, các hồ chứa thủy lợi phải được vận hành theo quy trình vận hành được lập, phê duyệt, công bố công khai theo quy định nhưng hiện mới chỉ có 28% số hồ được lập quy trình vận hành. Việc vận hành theo quy trình vận hành hiện nay chủ yếu căn cứ vào các yếu tố thời tiết dự báo (dự báo mưa), do thiếu các thiết bị đo mưa trên lưu vực hồ chứa.
Sau bão số 3, hệ thống thủy lợi Bắc Ninh nói riêng và các tỉnh nói chung phát sinh nhiều bất cập. Chẳng hạn, khu vực địa phương có cơ cấu tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ cao như Bắc Ninh cần chuyển dịch sang hướng tăng cường năng lực tiêu thoát, ngoài khả năng tưới.
Cũng theo ông Lương Văn Anh, trên cơ sở nhận diện những khó khăn thách thức, thời gian tới, Cục Thủy lợi sẽ tham mưu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng hoàn thiện thể chế, chính sách; thực hiện thể chế, chính sách về quản lý, vận hành hồ chứa thủy lợi; hiện đại hóa hệ thống quản lý vận hành hồ chứa thủy lợi; đầu tư xây dựng, sửa chữa, nâng cấp hồ chứa thủy lợi. Đồng thời, đề xuất các giải pháp đảm bảo an toàn vùng hạ du, lòng hồ chứa thủy lợi; rà soát, đề xuất các giải pháp nhằm khai thác hiệu quả, đa mục tiêu hồ chứa thủy lợi.
Tại Diễn đàn, chia sẻ về việc ứng dụng công nghệ số và các hệ thống hỗ trợ trong quản lý hồ chứa, ông Hà Ngọc Tuấn- Phó Tổng Giám đốc Công ty Liên danh KIV -Weather Plus cho biết, Công ty đã áp dụng toàn bộ kỹ thuật và tiêu chuẩn của Nhật Bản để nâng cao độ chính xác trong tính toán và vận hành, chuyên môn hóa dự báo nhằm phục vụ tốt hơn việc dự báo lượng nước mưa về hồ trước các đợt lũ.
Hệ thống Hỗ trợ Vận hành hồ chứa (HNT) được đánh giá là một công cụ quan trọng, giúp tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên nước, điều tiết lũ an toàn và giảm thiểu việc xả lũ không cần thiết. Hệ thống này còn đóng vai trò thiết yếu trong việc tăng hiệu quả hoạt động của các công trình thủy lợi, thủy điện.
Bên cạnh đó, Hệ thống HNT không chỉ xây dựng các kịch bản ứng phó với thiên tai mà còn đưa ra các dự báo có độ chính xác cao về lũ lụt, hạn hán hay các biến đổi khí hậu khác. Việc áp dụng các công nghệ số hóa giúp HNT không chỉ phản ứng nhanh trong các tình huống khẩn cấp mà còn tăng khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ tài nguyên nước bền vững trong dài hạn.
Theo: baotainguyenmoitruong.vn