Lưu vực sông Hồng – Thái Bình là một trong những lưu vực sông lớn ở Việt Nam, bao gồm 25 tỉnh, thành phố với tổng diện tích là 88.860 km2.
– Đối với tài nguyên nước mặt: lưu vực sông Hồng – Thái Bình có lượng mưa trung bình nhiều năm dao động từ khoảng 1000mm đến 1300mm, riêng khu vực thượng nguồn sông Đà, lượng mưa năm khá hơn, từ 1300mm đến 1500mm. Tổng lượng dòng chảy trung bình hàng năm trên lưu vực sông Hồng – Thái Bình là khoảng 131,4 tỷ m3, trong đó lượng nước sản sinh từ địa phận nước ngoài chảy vào Việt nam là 48,3 tỷ m3, lượng nước sản sinh trong lãnh thổ Việt Nam là 83,1 tỷ m3. Mùa mưa hàng năm thường xuất hiện bắt đầu từ Tháng 7 đến tháng 10, lượng dòng chảy mùa lũ chiếm khoảng 90% tổng lượng dòng chảy năm. Mùa cạn từ tháng 11 đến Tháng 7 năm sau, lượng dòng chảy mùa cạn chiếm khoảng 10 % tổng lượng dòng chảy năm.
– Đối với tài nguyên nước dưới đất: lưu vực Sông Hồng – Thái Bình hiện nay có 156 công trình quan trắc tài nguyên nước dưới đất được Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia xây dựng và đưa vào vận hành. Lưu vực sông bao gồm 3 tầng chứa nước chính là tầng chứa nước lỗ hổng trong trầm tích Holocen (qh), tầng chứa nước lỗ hổng trong trầm tích Pleistocen (qp) và tầng chứa nước khe nứt trong các đá trầm tích lục nguyên Neogene và Trias (n & t). Theo báo cáo thuộc dự án “Biên hội – thành lập bản đồ tài nguyên nước dưới đất tỷ lệ 1:200.000 cho các tỉnh trên toàn quốc”, tổng tài nguyên nước dự báo cho các tầng chứa nước: tầng chứa nước Holocen (qh) là 4.155.827 m3/ngày, tầng chứa nước Pleistocen (qp) là 13.108.361 m3/ngày
1. Tài nguyên nước mặt:
Tổng lượng nước mặt dự báo trong tháng 11 năm 2024 trên lưu vực dao động trong khoảng 9,56 – 10,28 tỷ m3, tăng trung bình khoảng 8% so với trung bình nhiều năm cùng thời kỳ; tăng trung bình khoảng 33% so với tháng 11/2023.
Dự báo trong tháng 11, tổng lượng nước nội sinh trên các vùng sông Đà, sông Thao, sông Lô – Gâm, sông Cầu – Thương và đồng bằng sông Hồng lần lượt dao động trong khoảng: 1.900,5 – 2.150,37 triệu m3, 958,34 – 1.078,86 triệu m3, 1.350,25 – 1.531,48 triệu m3, 350,00 – 396,49 triệu m3 và 612,00 – 739,00 triệu m3.
Trong tháng 11 dự báo không xảy ra hiện tượng thiếu nước tại các vùng trên lưu vực sông Hồng – Thái Bình.
2. Tài nguyên nước dưới đất:
Nhìn chung mực nước dưới đất trung bình tháng 10 so với tháng trước có xu thế hạ tại lớp chứa nước qh2, qh1, qp2, qp1 và tầng chứa nước n và t. Chất lượng nước trong các tầng chứa nước trong lưu vực khá tốt. Tuy nhiên có một số công trình có độ mặn, hàm lượng Mangan, Asen, Chì, E.Coli, Colifom và Amôni vượt quá GTGH so với QCVN 09:2023/BTNMT.
Dự báo mực nước dưới đất tháng 11 so với mực nước thực đo tháng 10 có xu thế hạ tại lớp chứa nước qh2, qh1, qp2, qp1 và tầng chứa nước n và t.
Trên lưu vực sông Hồng – Thái Bình thời điểm hiện tại có 5 công trình tại TP. Hà Nội (Q.62a – quận Từ Liêm, Q.63aM1 – quận Cầu Giấy, Q.68b – quận Hà Đông) và tỉnh Nam Định (Q.109a, Q.109b – huyện Trực Ninh) có độ sâu mực nước trung bình tháng vượt quá 50% ngưỡng giới hạn cho phép.
Sơ đồ diễn biến mực nước tháng 10 lớp qh2
3. Đề xuất, kiến nghị
Đối với tài nguyên nước mặt: Tháng 11 có tổng lượng nước mặt dự báo đạt trung bình khoảng 9,92 tỷ m3. Lượng nước mặt này đáp ứng được nhu cầu khai thác sử dụng trên lưu vực nên không xảy ra hiện tượng thiếu nước.
Việc phân bổ hài hòa nguồn nước cho các đối tượng sử dụng nước sẽ được thực hiện theo quy định tại Điều 21 Thông tư 04/2020/TT-BTNMT Quy định kỹ thuật quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh, nguồn nước liên tỉnh. Mặt khác, vẫn cần giám sát chặt chẽ hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước thông qua các quy định tại Thông tư 17/2021/TT-BTNMT Quy định về giám sát khai thác, sử dụng tài nguyên nước.
Đối với tài nguyên nước dưới đất: Đề nghị các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương, địa phương và các tổ chức, cá nhân có khai thác sử dụng nguồn nước dưới đất tiếp tục theo dõi và có các biện pháp, kế hoạch khai thác phù hợp đối với các khu vực có độ sâu mực nước vượt ngưỡng cho phép đặc biệt là tại các khu vực quận Hà Đông, Từ Liêm, Cầu Giấy – TP Hà Nội; huyện Trực Ninh – tỉnh Nam Định.
Nhìn chung chất lượng nước trong các tầng chứa nước trong lưu vực sông Hồng – Thái Bình đều tốt. Tuy nhiên có một số công trình có độ mặn, hàm lượng Mangan, Asen, Chì, E.Coli, Colifom và Amôni vượt quá GTGH so với QCVN 09:2023/BTNMT, đề nghị các cơ quan đưa ra cảnh báo cho người dân và tiếp tục theo dõi thêm.
Xem chi tiết tại đây: