Lưu vực sông Srê Pốk là một trong những lưu vực sông lớn ở Việt Nam, bao gồm 4 tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk, Đăk Nông và Lâm Đồng với tổng diện tích lưu vực là 17.230 km2. Mùa mưa từ tháng 7 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 7 năm sau.
– Đối với tài nguyên nước mặt, lưu vực sông Srê Pốk được chia thành 10 vùng bao gồm: Ia Drang, Ia Lop, Thượng Ea H’leo, Hạ Ea H’leo, Thượng Krông Ana, Hạ Krông Ana, Thượng Ea Krông Nô, Hạ Ea Krông Nô, Thượng Srê Pốk và Hạ Srê Pốk. Lượng mưa trung bình nhiều năm mùa mưa lưu vực sông Srêpok là 1.519 mm, trong đó lượng mưa trung bình nhiều năm lớn nhất là 2.158 mm (Bảo Lộc, Lâm Đồng). Dòng chảy trung bình nhiều năm trạm Bản Đôn là 273 m3/s, Cầu 14 là 242 m3/s, Đức Xuyên là 100 m3/s, Giang Sơn là 74 m3/s.
– Đối với tài nguyên nước dưới đất, hiện nay lưu vực sông Srê Pốk có 48 công trình quan trắc tài nguyên nước dưới đất được Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia xây dựng và đưa vào vận hành. Lưu vực sông bao gồm 4 tầng chứa nước chính: lỗ hổng trong trầm tích Đệ tế không phân chia (q), khe nứt lỗ hổng phun trào Bazan Pleistocen giữa – β(qp), khe nứt lỗ hổng phun trào Bazan Pliocen-Pleistocen dưới β(n2-qp), khe nứt lỗ hổng vỉa các thành tạo đầm hồ trầm tích Neogen (n). Theo báo cáo thuộc dự án “Biên hội – thành lập bản đồ tài nguyên nước dưới đất tỷ lệ 1:200.000 cho các tỉnh trên toàn quốc”, tổng tài nguyên nước dự báo cho các tầng chứa nước: Tầng chứa nước lỗ hổng trong trầm tích Đệ tứ không phân chia (q) là 812.985 m3/ngày, tầng chứa nước khe nứt lỗ hổng phun trào Bazan Pleistocen giữa β(qp) là 539.317 m3/ngày, khe nứt lỗ hổng phun trào Bazan Pliocen-Pleistocen dưới β(n2-qp) là 5.405.711 m3/ngày, khe nứt trong các đá trầm tích lục nguyên Neogen (n) là 8.746 m3/ngày.
1. Tài nguyên nước mặt
Trong tháng 10 năm 2024, mực nước trung bình trên sông Ea Krông Nô tại trạm Đức Xuyên giảm 02cm so với tháng trước, lưu lượng nước giảm 2% so với tháng trước.
Tổng lượng nước đến trạm Đức Xuyên khoảng 96,1 triệu m3. Chất lượng nước mặt trên sông Ea Krông Nô có thể sử dụng cho mục đích tưới tiêu và các mục đích tương đương khác.
Dự báo trong tháng 11 năm 2024, tổng lượng nước nội sinh trên các vùng quy hoạch thuộc lưu vực sông Srê Pốk có xu thế tăng 3,9% so với trung bình nhiều năm cùng thời kỳ, dao động trong khoảng từ 1.992 triệu m3 đến 2.260 triệu m3. Kết quả dự báo cho thấy trên lưu vực sông không xảy ra tình trạng thiếu nước.
2. Tài nguyên nước dưới đất
Trong tháng 10 mực nước dưới đất trung bình so với tháng trước có xu thế dâng tại tầng chứa nước q; β(qp) và hạ tại tầng chứa nước β(n2-qp); n. Chất lượng nước có xu thế ít biến đổi; nước trong lưu vực thuộc loại nước nhạt; một số nơi có hàm lượng Mn, NO3, amoni, Fe và Tổng coliform vượt GTGH (QCVN 09:2023/BTNMT).
Dự báo mực nước dưới đất tháng 11 so với mực nước thực đo tháng 10 có xu thế hạ tại tầng chứa nước q; β(qp); β(n2-qp) và dâng tại tầng chứa nước n.
Trên lưu vực sông Srê Pốk thời điểm hiện tại chưa có công trình nào có độ sâu mực nước trung bình tháng vượt quá 50% ngưỡng giới hạn cho phép.
Sơ đồ diễn biến mực nước 10 tầng q
3. Đề xuất, kiến nghị
Đối với tài nguyên nước mặt: Tổng lượng nước tại trạm Đức Xuyên trong tháng 10 giảm khoảng 2 triệu m3 so với tháng trước, dự báo tổng lượng nước nội sinh từ mưa trong tháng 11 trên lưu vực sông Srê Pốk có xu thế tăng 3,9% so với trung bình nhiều năm cùng thời kỳ, dao động trong khoảng từ 1.992 triệu m3 đến 2.260 triệu m3.
Trên lưu vực sông Srê Pốk, cảnh báo trong tháng 11 không xảy ra tình trạng thiếu nước, tuy nhiên vẫn cần có kế hoạch sử dụng nước hợp lý cho các ngành sử dụng và hài hòa giữa các bên liên quan để đảm bảo tính bền vững trong lĩnh vực tài nguyên nước.
Đối với tài nguyên nước dưới đất: Hiện tại, trên phạm vi lưu vực sông Srê Pốk chưa có công trình thuộc diện phải cảnh báo, tuy nhiên để đảm bảo khai thác ổn định, cần theo dõi chặt chẽ diễn biến mực nước dưới đất trong các tầng chứa nước trên lưu vực và các bản tin dự báo tiếp theo để phục vụ quản lý, khai thác hiệu quả nguồn nước dưới đất.
Trong mùa mưa năm 2024, nhìn chung chất lượng nước trong các tầng chứa nước thuộc lưu vực sông Srê Pốk đều tốt. Tuy nhiên có một số công trình có hàm lượng Mn, amoni, NO3, Fe và Tổng coliform vượt GTGH so với QCVN 09:2023/BTNMT, đề nghị các cơ quan đưa ra cảnh báo cho người dân và tiếp tục theo dõi thêm.
Xem chi tiết tại đây: