Tại 50% các quốc gia trên thế giới, một hoặc nhiều loại hệ sinh thái nước ngọt đang bị suy thoái, bao gồm sông, hồ và tầng chứa nước. Lưu lượng sông đã giảm đáng kể, các vùng nước mặt đang thu hẹp hoặc bị mất đi, nước xung quanh ngày càng ô nhiễm và việc quản lý nước đang đi chệch hướng. Đây là một số phát hiện của 3 báo cáo theo dõi tiến độ về nước ngọt, vừa được Ủy ban về nước Liên hợp quốc (UN-Water) và Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) công bố.
Loạt báo cáo 3 năm 1 lần tập trung vào tiến độ đạt được mục tiêu "nước sạch và vệ sinh cho tất cả mọi người" (SDG 6) thông qua việc bảo vệ và khôi phục các nguồn nước ngọt. Dựa trên các tập dữ liệu lớn hơn bao giờ hết, các báo cáo nhắc lại lời kêu gọi tăng cường hỗ trợ cho các quốc gia thành viên trong việc giải quyết các thách thức thông qua chiến lược toàn hệ thống của Liên hợp quốc về nước và vệ sinh và Kế hoạch thực hiện hợp tác sắp tới.
Bà Dianna Kopansky, Trưởng bộ phận Nước ngọt và Đất ngập nước, Ban Hệ sinh thái tại UNEP cho biết, hành tinh xanh của chúng ta đang nhanh chóng bị mất đi các nguồn nước ngọt và tài nguyên lành mạnh, với những vấn đề tồi tệ về an ninh lương thực, biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học.
“Vào thời điểm quan trọng này, các cam kết chính trị toàn cầu về quản lý nước bền vững chưa bao giờ cao hơn, bao gồm cả việc thông qua nghị quyết về nước tại Đại hội đồng Môi trường Liên hợp quốc gần đây nhất vào tháng 2, nhưng chúng không được đáp ứng bằng nguồn tài chính hoặc hành động cần thiết. Các chính sách bảo vệ và phục hồi, được xây dựng riêng cho các khu vực khác nhau, đang ngăn chặn tình trạng mất đa dạng sinh học và cho thấy việc đảo ngược tình trạng suy thoái đang trong tầm tay. Chúng ta cần nhiều hơn nữa các chính sách này”, bà Kopansky cho biết thêm.
Suy thoái lan rộng
Theo báo cáo, 90 quốc gia, hầu hết ở Châu Phi, Trung Á và Đông Nam Á, đang trải qua tình trạng suy thoái của một hoặc nhiều hệ sinh thái nước ngọt. Các khu vực khác, như Châu Đại Dương, đánh dấu sự cải thiện. Ô nhiễm, chuyển đổi đất, khai thác quá mức và biến đổi khí hậu góp phần làm suy thoái các hệ sinh thái nước ngọt.
Do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và sử dụng đất, các dòng sông đã giảm ở 402 lưu vực trên toàn thế giới, con số này nhiều hơn gấp 5 lần kể từ năm 2000.
Việc mất rừng ngập mặn do các hoạt động của con người (ví dụ như nuôi trồng thủy sản và nông nghiệp) gây ra rủi ro cho các cộng đồng ven biển, nguồn nước ngọt, đa dạng sinh học và khí hậu do đặc tính lọc nước và cô lập carbon của chúng. Sự suy giảm đáng kể của rừng ngập mặn đã được ghi nhận ở Đông Nam Á, mặc dù tốc độ phá rừng đã chậm lại trong thập kỷ qua.
Hồ và các vùng nước mặt khác đang bị thu hẹp hoặc bị mất hoàn toàn ở 364 lưu vực trên toàn thế giới. Nồng độ hạt và chất dinh dưỡng cao liên tục trong nhiều hồ lớn có thể dẫn đến hiện tượng tảo nở hoa và nước thiếu oxy, chủ yếu là do khai hoang và đô thị hóa, và một số hiện tượng thời tiết nhất định. Tuy nhiên, việc xây dựng các hồ chứa góp phần vào mức tăng ổn định nguồn nước, chủ yếu ở các khu vực như Bắc Mỹ, Châu Âu và Châu Á.
Mức độ giám sát chất lượng nước thấp
50% dân số thế giới sống tại những khu vực mà chỉ có 3% số liệu đo lường về chất lượng nước, chỉ bao gồm 4.500 phép đo chất lượng hồ trong số gần 250.000 phép đo. Điều này cho thấy nhu cầu cấp thiết phải cải thiện năng lực giám sát. Thiếu dữ liệu ở quy mô này có nghĩa là đến năm 2030, hơn một nửa nhân loại sẽ sống ở các quốc gia không có đủ dữ liệu chất lượng nước để đưa ra quyết định quản lý liên quan đến việc giải quyết hạn hán, lũ lụt, tác động từ nước thải và dòng chảy nông nghiệp.
Khi có dữ liệu tốt, điều đó cho thấy chất lượng nước ngọt đã suy giảm kể từ năm 2017. Khi thiếu dữ liệu, các dấu hiệu không mấy khả quan.
Các tác giả của báo cáo khuyến nghị mở rộng và phát triển các chương trình giám sát thường xuyên do chính phủ tài trợ, cũng như kết hợp khoa học công dân vào các chương trình quốc gia như vậy và khám phá tiềm năng của quan sát Trái đất dựa trên vệ tinh và các sản phẩm dữ liệu mô hình để giúp lấp đầy khoảng trống dữ liệu.
Tiến độ quản lý tài nguyên nước chưa đạt yêu cầu tại hơn 100 quốc gia
Cân bằng nhu cầu cạnh tranh về sử dụng nước bền vững từ xã hội và nền kinh tế đòi hỏi phải triển khai quản lý tài nguyên nước tổng hợp (IWRM) trên mọi lĩnh vực, ở mọi cấp độ và xuyên biên giới vào năm 2030.
47 quốc gia đã đạt được hoặc gần đạt được IWRM, 63 quốc gia cần đẩy nhanh quá trình triển khai, trong khi 73 quốc gia có năng lực hạn chế về IWRM. Với tốc độ tiến triển được báo cáo hiện tại, thế giới sẽ chỉ đạt được quản lý nước bền vững vào năm 2049. Điều này có nghĩa là đến năm 2030, ít nhất 3,3 tỷ người ở hơn 100 quốc gia có khả năng sẽ có khung quản trị không hiệu quả để cân bằng nhu cầu nước cạnh tranh.
Để giải quyết vấn đề, các giải pháp được đề xuất bao gồm mở khóa tài chính thông qua các thỏa thuận tăng doanh thu và thu hồi chi phí, đầu tư vào cơ sở hạ tầng và quản lý, cũng như tăng cường hành động phối hợp, năng lực thể chế và mạng lưới giám sát tốt hơn.
Nguồn:baotainguyenmoitruong.vn