Vùng Đức Phổ có nguồn nước sạch, cải thiện cuộc sống

 vv184Sau hơn 3 năm triển khai (2009 – 2012) Đề án “Đánh giá tài nguyên nước dưới đất vùng Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi”do Liên đoàn Quy hoạch & Điều tra tài nguyên nước (QH & ĐTTNN) miền Trung (thuộc Trung tâm QH & ĐTTNN) thực hiệnđã hoàn thành, thỏa mãn ước mong lâu nay của người dân huyện Đức Phổ là có nguồn nước sạch cải thiện cuộc sống,làm cơ sở cho việc quy hoạch khai thác, sử dụng nước trên địa bàn huyện, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp phát triển KT-XH của một vùng đất nghèo miền Trung.

Ông Nguyễn Lưu, Liên đoàn trưởng Liên đoàn QH & ĐT TNN miền Trung cho biết: Vùng điều tra, đánh giá nguồn nước dưới đất bao gồm huyện Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi và một phần các huyện An Lão, Hoài Nhơn tỉnh Bình Định, có mật độ dân cư đông, đất đai phù hợp cho phát triển nông nghiệp, chuyên canh cây công nghiệp, nhưng cuộc sống người dân vẫn nghèo khó do thiếu nguồn nước sạch cho sinh hoạt và phát triển kinh tế. Theo quy hoạch phát triển KT-XH của huyện Đức Phổ đến năm 2010 với số dân 107.161 người, nhu cầu nước sạch cho ăn uống và sinh hoạt sẽ lớn hơn 10.000 m3/ng. Tại các xã vùng ven biển của Đức Phổ, nước dưới đất thường bị nhiễm mặn, một số khu nhiễm bẩn nghiêm trọng nên tình trạng thiếu nước càng trở nên gay gắt. Vì thế, việc điều tra, đánh giá trữ lượng, chất lượng nguồn nước dưới đất (NDĐ) ở vùng Đức Phổ – Quảng Ngãi là rất cấp thiết.

Vùng Đề án cách thành phố Quảng Ngãi khoảng 40 km về phía Nam có tổng diện tích 662 km2. Để xác định các tầng chứa nước, đánh giá trữ lượng, chất lượng (NDĐ), khoanh vùng triển vọng để khai thác phục vụ sinh hoạt, Liên đoàn đã điều tra địa chất thủy văn với các phương pháp kĩ thuật chủ yếu như: Thu thập, xử lí tài liệu; đo vẽ địa chất thủy văn; địa chất – địa chất thủy văn tổng hợp tỉ lệ 1:50.000, đo địa vật lí, khoan địa chất thủy văn, hút nước thí nghiệm, quan trắc động thái nước, lấy và phân tích mẫu nước, đo trắc địa công trình.

13 lỗ khoan có trữ lượng và chất lượng nước tốt

Sau hơn 3 năm triển khai, Đề án đạt yêu cầu mục tiêu, nhiệm vụ đề ra:Đã bàn giao 13 lỗ khoan có số lượng và chất lượng nước tốt cho Trung tâm Nước sinh hoạt và Vệ sinh Môi trường nông thôn các tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi để lập dự án khai thác nước, phục vụ nhu cầu cấp nước sinh hoạt cho nhân dân. Đề án đã làm sáng tỏ, xác định được các tầng chứa nước; đánh giá trữ lượng và chất lượng NDĐ; khoanh được các vùng triển vọng để thăm dò khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn NDĐ phục vụ nhu cầu phát triển KT-XH trong vùng. Đã xác định được các vùng triển vọng thăm dò khai thác, cấp nước sinh hoạt; khai thác cấp C1 : 7205 m3/ng; cấp C2: 3148 m3/ng; trữ lượng khai thác tiềm năng: 351.000 m3/ng, trong đó, trữ lượng của các vùng có triển vọng NDĐ: 171.671 m3/ng; Trữ lượng của các vùng không có triển vọng NDĐ: 169.334 m3/ng. Chất lượng nước dưới đất trong vùng nghiên cứu được đánh giá, về cơ bản đều đạt Quy chuẩn kĩ thuật quốc gia về chất lượng nước ngầm; các chất gây độc hại có hàm lượng nhỏ hơn nhiều so với giới hạn cho phép.

   Sử dụng, bảo vệ nguồn nước

Theo các tác giả Đề án: Đối với vùng chứa nước trung bình của tầng chứa nước Holocen, cần thiết kế các công trình khai thác nước theo chiều dài của dải cát với chiều sâu giếng khoan từ 20 ÷ 22 mét, khoảng cách và số giếng khoan tùy thuộc vào quy mô khai thác. Cũng có thể đào giếng đường kính lớn sử dụng bơm li tâm để lấy nước hoặc bố trí các lỗ khoan đơn lẻ, công suất khai thác mỗi giếng khoảng 120 ÷ 170 m3/ng. Các vùng chứa nước trung bình trên bề mặt chứa nước là cát bở rời, có nguy cơ ô nhiễm cao; vì thế cần tránh xả rác, nước thải. Việc sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm NDĐ nên cần hạn chế ở mức cho phép; sử dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp trên diện tích phân bố các tầng chứa nước. Các giếng khoan khai thác nước thiết phải được cách li bằng đất sét và xi măng giữa tầng chứa nước với nước trên mặt để hạn chế ô nhiễm nguồn nước; xây dựng đới phòng hộ vệ sinh cho các công trình khai thác; tránh khai thác cạn kiệt tầng chứa nước, khoan, khai đào khi chưa hiểu biết rõ đặc điểm, làm nhiễm bẩn và xâm nhập mặn đến các tầng chứa nước.

Chính quyền địa phương, các cấp có thẩm quyền cần làm tốt khâu quản lí, cấp Giấy phép khai thác NDĐ, thường xuyên theo dõi quá trình hoạt động khai thác và thực hiện tốt Luật Tài nguyên nước, Luật Bảo vệ môi trường.

 (Theo Monre.gov.vn)