Trung tâm QH&ĐTTNNQG tham dự Hội nghị sơ kết công tác 6 tháng đầu năm, triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2018

Chiều 11/7, Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà cùng các Thứ trưởng: Nguyễn Thị Phương Hoa, Võ Tuấn Nhân, Trần Quý Kiên, Lê Công Thành đã chủ trì Hội nghị sơ kết công tác 6 tháng đầu năm, triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2018.

https://nawapi.gov.vn/images/stories/3a.jpg

Bộ Tài nguyên và Môi trường triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2018

Tham dự Hội nghị có lãnh đạo các đơn vị trực thuộc Bộ khu vực Hà Nội.

Phát biểu khai mạc Hội nghị, Bộ trưởng Trần Hồng Hà ghi nhận và đánh giá cao nỗ lực của lãnh đạo, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động của Bộ Tài nguyên và Môi trường trong 6 tháng đầu năm 2018 nói riêng và nửa nhiệm kỳ 2016 – 2021 nói chung.

Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho rằng, những kết quả của nửa đầu nhiệm kỳ 2016 – 2021 là tiền đề quan trọng để ngành Tài nguyên và Môi trường tiếp tục ổn định và phát triển trong thời gian tới.

https://nawapi.gov.vn/images/stories/3b.jpg

Bộ trưởng Trần Hồng Hà ghi nhận và đánh giá cao nỗ lực của lãnh đạo, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động của Bộ Tài nguyên và Môi trường trong 6 tháng đầu năm 2018 nói riêng và nửa nhiệm kỳ 2016 – 2021 nói chung.

Về tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác 6 tháng đầu năm 2018, Báo cáo của Văn phòng Bộ TN&MT nêu rõ: Trong 6 tháng đầu năm Bộ TN&MT đã theo sát tình hình thực tiễn, chủ động chỉ đạo triển khai các giải pháp phù hợp để tăng cường bảo vệ môi trường, quản lý tài nguyên, chủ động phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật; đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật. Kiện toàn tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu quả; xây dựng nền hành chính kỷ luật, kỷ cương, liêm chính, kiến tạo phát triển, phục vụ người dân và doanh nghiệp.

Trong công tác hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật, Bộ đã trình và được Quốc hội thông qua Luật đo đạc và bản đồ; tập trung xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều về quy hoạch của Luật đất đai, Luật BVMT, Luật khoáng sản, Luật tài nguyên nước, Luật khí tượng thủy văn, Luật đa dạng sinh học, Luật tài nguyên, môi trường biển và hải đảo;

Trong 6 tháng đầu năm 2018, Bộ đã triển khai 42 cuộc thanh tra, kiểm tra đối với 56 tổ chức và 02 cuộc giám sát hoạt động Đoàn thanh tra theo kế hoạch. Cũng trong 6 tháng đầu năm Bộ đã tiếp 121 lượt công dân với tổng số 181 người, trong đó có 08 lượt đoàn đông người giảm 61 lượt, 341 người so với năm 2017. Bộ đã thẩm tra, xác minh 18/20 vụ việc thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của Bộ (13 vụ việc năm 2017), ban hành quyết định giải quyết 06 vụ việc. Nội dung khiếu nại chủ yếu liên quan đến việc thu hồi, bồi thường, hỗ trợ về đất, tranh chấp đất đai; một số trường hợp tố cáo và khiếu nại liên quan đến ô nhiễm môi trường.

Cũng trong nửa đầu của năm 2018, Bộ TN&MT đã tiếp tục đẩy nhanh triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý từng bước thực hiện giảm giấy tờ trong điều hành, hiện đại hóa nền hành chính. Triển khai cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho 82 TTHC, trong đó có 67 dịch vụ công mức độ 3, 15 dịch vụ công mức độ 4 (có 11 TTHC kết nối với Cổng thông tin Một cửa quốc gia). Kết quả chỉ số CCHC của Bộ đã có những bước tiến đáng kể, kết quả xếp hạng năm 2017 là 10/19 các Bộ, cơ quan ngang Bộ (tăng 6 bậc so với năm 2016); xếp hạng về mức độ ứng dụng CNTT, phát triển Chính phủ điện tử năm 2017 đứng thứ 5 trong các Bộ, ngành…

Về những nhiệm vụ trọng tâm trong 6 tháng cuối năm 2018, nhằm đảm bảo hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra trong chương trình công tác năm, chương trình hành động của ngành thực hiện Nghị quyết số 01 của Chính phủ, trong 6 tháng cuối năm 2018… Bộ TN&MT yêu cầu các đơn vị cần tập trung chỉ đạo, tăng cường công tác phối hợp, chủ động nắm bắt tình hình, tháo gỡ kịp thời các vướng mắc từ địa phương cơ sở để hoàn thành tốt các nhiệm vụ trọng tâm như:

Tập trung hoàn thành việc xây dựng trình 57/71 đề án, văn bản quy phạm pháp luật còn lại trong Chương trình công tác, Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật năm 2018 của Bộ;

Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các nhiệm vụ, tiến độ giải ngân. Thực hiện nghiêm kỷ luật ngân sách: kiên quyết cắt giảm, điều chuyển vốn các dự án chậm tiến độ để điều chuyển cho các dự án, nhiệm vụ cấp bách của ngành, các dự án có khả năng giải ngân tốt;

Thúc đẩy, mở rộng các diễn đàn đối thoại chính sách, tham vấn các nhà đầu tư, tài trợ, phục vụ trao đổi thông tin pháp luật về TN&MT. Mở rộng các mối quan hệ song phương, đa phương và liên khu vực với các nước, tổ chức quốc tế, tổ chức phi Chính phủ nước ngoài; chủ động hợp tác và hội nhập, đặc biệt là về KHCN, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và vận động, thu hút, thực hiện và quản lý có hiệu quả nguồn hỗ trợ nước ngoài phục vụ cho công tác quản lý nhà nước và phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH;

Hoàn thành xây dựng, ban hành kiến trúc chính phủ điện tử ngành TN&MT phiên bản 2.0. Xây dựng và triển khai hệ thống thông tin báo cáo tổng hợp trung ương đến địa phương để phục vụ chỉ đạo điều hành. Chia sẻ, kết nối thông tin chỉ đạo, điều hành giữa Bộ với Chính phủ, và các Sở TN&MT. Nâng cấp, hoàn thiện hạ tầng công nghệ thông tin; thực hiện việc đánh giá chấm điểm ứng dụng công nghệ thông tin của các đơn vị thuộc Bộ và các Sở TN&MT…

Tại cuộc họp, các Thứ trưởng và lãnh đạo các đơn vị trực thuộc Bộ đã nghe, thảo luận về các báo cáo chuyên đề như: Công tác kế hoạch, tài chính, đầu tư và kết quả giải ngân; tình hình phê duyệt nhiệm vụ đặc thù, nhiệm vụ thường xuyên; Công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp; Công tác tổ chức cán bộ, cải cách hành chính và đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của người  đứng đầu đơn vi của Bộ; Tình hình phát triển, ứng dụng công nghệ thông tin và cung cấp dịch vụ công trực tuyến; Báo cáo tình hình thực hiện Chương trình công tác, các nhiệm vụ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Lãnh đạo Bộ giao…

Kết luận tại Hội nghị, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết, nhiệm vụ chiến lược lâu dài hiện nay đối với ngành Tài nguyên và Môi trường trong đó những lĩnh vực như Đất đai, Môi trường, Biến đổi khí hậu, Biển và hải đảo, Tài nguyên nước… cần phải đổi mới tư duy, quan điểm mục tiêu, chủ trương, chính sách pháp luật để đánh giá và điều chỉnh cho phù hợp với thể chế kinh tế thị trường hiện đại đã được xác định trong các Nghị quyết của Đảng.

Bộ trưởng đề nghị cần tập trung xây dựng chiến lược phát triển ngành để làm cơ sở cho xây dựng các kế hoạch phát triển, lộ trình, giải pháp, nhiệm vụ cho phát triển ngành trong dài hạn; xây dựng lộ trình đầu tư phát triển, đào tạo nguồn nhân lực; tập trung rà soát đánh giá tiềm năng tài nguyên, đổi mới trong công tác lập quy hoạch với tầm nhìn dài hạn phù hợp với chiến lược phát triển của đất nước để phát huy được nguồn lực tài nguyên cho phát triển.

Đổi mới trong công tác nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản; các Viện, cơ quan nghiên cứu phải tự nâng cao năng lực để tự chủ, nâng cao năng lực trong đề xuất các chính sách, công nghệ mới có tính đột phá cho ngành, tiến tới chấm dứt tình trạng các sản phẩm nghiên cứu, các kết quả điều tra không đóng góp cho thực tiễn. Trường đào tạo cán Bộ TN&MT cần có chiến lược dài hạn, đề án rõ ràng để phát triển nguồn nhân lực cho ngành; các nội dung đào tạo phải cụ thể hóa và đưa ra những tiêu chuẩn hóa đáp ứng được với nhu cầu thực tiễn.

Xây dựng kế hoạch hiện đại hóa hệ thống hạ tầng đặc biệt là thông tin dữ liệu, phấn đấu xây dựng ngành, Bộ, tiên phong, hiện đại trong quản lý kỹ thuật ứng dụng công nghệ thông tin, tăng cường năng lực cán bộ, hiện đại hóa CNTT để đáp ứng được với nhu cầu trong thời kỳ mới. Xây dựng và triển khai hệ thống thông tin báo cáo từ Trung ương đến địa phương; kết nối thông tin chỉ đạo, điều hành giữa Bộ với các Sở TN&MT.

Bộ trưởng cũng nhấn mạnh, trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng, do đó cần phải xây dựng các hàng rào kỹ thuật, quy chuẩn tiêu chuẩn, triển khai các chính sách pháp luật phải hài hòa với quốc tế. Học hỏi những kinh nghiệm tiên tiến của các đối tác quốc tế và áp dụng, đào tạo lại cho các cán bộ Việt Nam.

Đối với lĩnh vực đất đai, Bộ trưởng nhấn mạnh, cần phải đổi mới mạnh mẽ hơn nữa để loại bỏ những vấn đề tồn đọng như hiện nay về quy hoạch, khiếu kiện, tranh chấp đất đai, lợi ích nhóm… Bộ trưởng đề nghị Tổng cục QLĐĐ tổ chức các cuộc hội thảo, hội nghị, tập trung lấy ý kiến chuyên gia nhà khoa học trong nước và quốc tế, mời các lãnh đạo trung ương, địa phương tham dự và trao đổi đối với từng nhóm vấn đề dự kiến sửa đổi, bổ sung trong Luật đất đai để từ đó tập trung chỉ đạo giải quyết tình trạng lãng phí đất đai; đẩy nhanh tiến độ rà soát, sắp xếp đất đai có nguồn gốc từ các nông, lâm trường; rà soát tình hình sử dụng quỹ đất công ích. Tháo gỡ vướng mắc trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với các dự án trọng điểm.

Đối với lĩnh vực môi trường, Bộ trưởng đề nghị Tổng cục Môi trường rà soát, điều chỉnh hoặc xây dựng mới các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường. Đổi mới tư duy kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm môi trường; làm rõ trình độ, công nghệ, quy chuẩn hiện nay về bảo vệ môi trường đã tiếp cận được các quy chuẩn, tiêu chuẩn của quốc tế hay chưa.

Bên cạnh đó, Bộ trưởng cho biết hiện trạng ô nhiễm môi trường hiện nay cũng ảnh hưởng đến suy thái đa dạng sinh học rất lớn và đa dạng sinh học của Việt Nam đang phải hứng chịu những rủi ro đặc biệt. Do đó, cần triển khai tổng điều tra, đánh giá, phân loại nguồn thải; xây dựng cơ sở dữ liệu về nguồn thải. Kiểm soát các cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường; cần phân công công việc và gắn nhiệm vụ tới địa phương, cá nhân và phải chịu trách nhiệm tới những vấn đề ô nhiễm, nhằm đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế song hành với BVMT, phát triển bền vững.

Đối với lĩnh vực Khí tượng thủy văn, Bộ trưởng đề nghị cần phải huy động các nguồn lực bao gồm nguồn lực xã hội để hiện đại hóa mạng lưới KTTV; nâng cao năng lực, chất lượng dự báo, cảnh báo, tăng thời hạn dự báo bão, áp thấp nhiệt đới mưa lũ trên diện rộng; xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin về lĩnh vực khí tượng thủy văn để có thể ngoài công tác phục vụ chuyên môn có thể xây dựng cơ chế định mức chia sẻ dữ liệu tới các đối tác khác phục vụ cho sản xuất, xã hội hóa các hoạt động KTTV phục vụ phát triển kinh tế xã hội.

Với lĩnh vực Biển và Hải đảo, Bộ trưởng đề nghị Tổng cục biển và hải đảo lập quy hoạch không gian biển quốc gia và quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ của cả nước; xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ chương trình trọng điểm điều tra cơ bản tài nguyên môi trường biển và hải đảo; Đề án tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 BCH Trung ương Đảng khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020…

Ngoài ra, Bộ trưởng đề nghị Tổng cục Biển và Hải đảo phải phối hợp với Tổng cục Môi trường để cùng đưa ra những chiến lược, giải pháp xử lý vấn đề rac thải nhựa đại dương, ô nhiễm môi trường biển; tăng cường công tác hợp tác quốc tế để nhận sự hỗ trợ từ chính sách, kinh nghiệm, công nghệ, sự đầu tư của các đối tác quốc tế giải quyết vấn đề rác thải nhựa như hiện nay.

Bộ trưởng cũng đề nghị Cục quản lý Tài nguyên nước tập trung triển khai, thực hiện việc cấp quyền khai thác tài nguyên nước; điều phối, giám sát, giải quyết các vấn đề liên vùng, liên ngành trong quản lý, khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước; nghiên cứu đề xuất hợp tác chặt chẽ với các nước trong chia sẻ nguồn nước xuyên biên giới. Theo dõi diễn biến tình hình khai thác nguồn nước tại thượng nguồn các sông lớn chủ động đề xuất các đối sách phù hợp trong ngắn hạn và dài hạn. Tiếp tục duy trì tổ công tác của Bộ trưởng để kiểm tra công tác thực hiện các nhiệm vụ được giao, Bộ trưởng khuyến khích trong tổ công tác sẽ có thành phần của Đoàn thanh niên, Công đoàn Bộ, các thành viên của các đơn vị trực thuộc bộ để có thể kiểm tra chéo lẫn nhau. Bộ trưởng đề nghị công tác báo cáo của tổ công tác phải tiên phong, sáng tạo và áp dụng sử dụng công nghệ thông tin trong công tác hoạt động; quá trình kiểm tra phải đột xuất để có thể đánh giá được chính xác nhất.

https://nawapi.gov.vn/images/stories/3c.jpg

Toàn cảnh Hội nghị Tổng kết chiều ngày 11/07