
Hình 1. Sông Tigris và sông Euphrates và các đập nước. Nguồn: Nguyễn Thọ Nhân, Trung Đông trong thế kỷ XX, NXB Tổng hợp TPHCM, 2008 và NUE |
Vùng Lưỡng Hà gồm hai con sông Tigris và Euphrates (hình 1) là cái nôi của nhiều nền văn minh rực rỡ trong quá khứ. Cả hai sông đều bắt nguồn trên đất Thổ Nhĩ Kỳ trước khi chảy qua Syria rồi hợp lại với nhau ở Chatt al-Arab (Iraq) và chảy ra biển. Thổ Nhĩ Kỳ hiện kiểm soát 88% lượng nước chảy vào sông Euphrates và 40% nước sông Tigris. Syria chỉ kiểm soát 12% lượng nước sông Euphrates còn Iraq tuy không kiểm soát nước sông Euphrates nhưng nhờ các phụ lưu có nguồn từ dãy Zagros mà làm chủ được 51% lượng nước sông Tigris. Nhiều đập thủy điện đã được xây dựng trên hai con sông này như các công trình của Iraq xây năm 1927 hay đập Haditha trên sông Euphrates, hồ chứa Al Tharthar, các đập Mosul, Saddam trên sông Tigris. Cùng với các kênh đào như “Nhánh thứ ba” xây năm 1992, Chính phủ Iraq đã thành công trong việc rửa mặn và tiêu nước cho vùng đầm lầy ở miền Nam, cải tạo cho 1,5 triệu hec ta đất hoang trong vùng châu thổ. Tất cả những công trình này đều nằm trên đất Iraq ở vùng hạ lưu các con sông nên không ảnh hưởng đến các nước khác. Năm 1976, Thổ Nhĩ Kỳ đưa ra một kế hoạch lớn gọi là GAP (Güneydogu Anadolu Projesi, Kế hoạch Đông Nam Anatolia) với 7 công trình trên sông Euphrates và 6 công trình trên sông Tigris. Khi hoàn thành, kế hoạch này sẽ cung cấp hằng năm 26 tỷ kWh điện cho Thổ Nhĩ Kỳ và lấy nước tưới cho 1,7 triệu héc ta. Ảnh hưởng đến các nước ven sông ở hạ lưu rất lớn vì sẽ có 17% nước sông Euphrates và 34% nước sông Tigris bị mất đi vì thấm vào đất, lưu lượng hằng năm của sông Tigris giảm 6 tỷ m3 và của sông Euphrates giảm 11 tỷ m3. Tháng Giêng năm 1990, khi Thổ Nhĩ Kỳ ngăn dòng Euphrates để lấy nước đổ vào hồ chứa đập Ataturk thì chiến tranh giữa Thổ Nhĩ Kỳ và hai nước vùng hạ lưu gần như bùng nổ. Sau khi đập Ataturk hoàn thành, lượng nước sông Euphrates đã giảm đi 120 m3/giây và mực nước hạ thấp khoảng 3 mét. Sau nhiều năm thương lượng, một thỏa thuận tạm thời được ký kết theo đó, Thổ Nhĩ Kỳ cho chảy vào Syria một lưu lượng 500 m3/giây trên sông Euphrates tương đương với 15,75 km3 nước mỗi năm trong khi lưu lượng tự nhiên là 28 km3 nước mỗi năm. Trên lưu lượng 500 m3/giây ấy, Syria được sử dụng 42% còn Iraq 58%. Hậu quả là ngày nay, Iraq bị thiếu nước trầm trọng, đất trồng trọt chung quanh Baghdad bị nhiễm mặn nặng nề. Kế hoạch cải tạo đầm lầy vùng châu thổ Lưỡng Hà bị phá sản. Trước hai cuộc chiến tranh vùng Vịnh, Iraq là quốc gia độc nhất ở Trung Đông gần như tự túc được lương thực thì nay đang phải nhập nhiều lương thực.
Tranh chấp tài nguyên nước trong lưu vực sông Jordan
|
|
Hình 2 Lưu vực sông Jordan và các mạch nước ngầm trong vùng.
Cũng trong năm 1964, Jordan xây dựng kênh đào Đông Ghawr để trích nước từ sông Yarmuk và Syria cũng xây những hồ chứa trên sông Yarmuk. Những công trình này nằm trên các phụ lưu của sông Jordan nên Israel không hề có phản ứng gì. Mãi đến năm 1969 Israel mới cho không quân phá huỷ kênh đào Đông Ghawr. Tuy nhiên, Syria và Jordan muốn xây những đập và hồ chứa nước ở thượng nguồn sông Jordan, trên lãnh thổ của họ rồi dẫn nước xuống sông Yarmuk. Nếu những công trình này hoàn thành, Công trình Dẫn nước Quốc gia của Israel sẽ mất đi 35% lưu lượng và nước cung cấp cho Israel giảm đi 11%. Phản ứng của Israel đã đến nhanh chóng, các cuộc ném bom của không quân Israel trong lãnh thổ Syria đã phá huỷ các công trình thuỷ lợi này. Chỉ hai tháng sau cuộc oanh tạc này, chiến tranh “Sáu ngày” năm 1967 bùng nổ và Israel nhanh chóng chiếm toàn bộ cao nguyên Golan, bảo đảm an toàn cho nguồn tài nguyên nước của mình. Thủ tướng Israel Ariel Sharon đã nói rằng cuộc chiến tranh “Sáu ngày” đã chính thức bắt đầu với việc oanh tạc các công trường thuỷ lợi của Syria. Tình hình bế tắc vẫn kéo dài cho đến ngày nay. Hai nước Syria và Jordan đang chờ thời cơ thuận tiện để xây một đập nước lớn mang tên al-Wahdah (Đoàn kết), tên mới của đập al-Maqarin trước đây, ở thượng nguồn sông Yarmuk mặc dù thoả thuận đã được ký kết năm 2003.
Đập thủy điện Ataturk – Thổ Nhĩ Kỳ
Sử dụng tài nguyên nước trên các dòng sông quốc tế.
Cho đến nay, các cách ứng xử trên các dòng sông quốc tế vẫn chỉ theo những trường hợp cụ thể, dựa vào các hiệp ước và thỏa thuận giữa các quốc gia hữu quan là chính. Trên thế giới hiện có 261 lưu vực dòng chảy quốc tế, chiếm 45% diện tích đất toàn cầu và là nơi sinh sống của trên 40% dân số thế giới. Trong vấn đề sử dụng tài nguyên nước trên các dòng sông quốc tế, hai công ước được xem là cơ sở cho các chuẩn mực ứng xử công bằng: – Quy định Helsinki năm 1967 về việc sử dụng nước trên các dòng sông quốc tế. Cho đến nay quy định Helsinki chỉ mới được sử dụng một lần trong bản tuyên bố năm 1975 của Ủy ban sông Mekong. – Công ước Liên Hiệp Quốc năm 1997 về việc “sử dụng không vì mục đích giao thông của các dòng chảy quốc tế”. Công ước này nhấn mạnh đến việc sử dụng “công bằng và hợp lý” các dòng sông quốc tế. Có ba nước là Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và Pháp đã không ký vào công ước này. Các công ước này ra đời để hạn chế những sử dụng lạm quyền của nhiều quốc gia nằm ở thượng nguồn các dòng sông quốc tế khi xây dựng những công trình thủy nông hay thủy điện, không đếm xỉa đến quyền lợi của các nước ven sông nằm ở hạ lưu. Họ đã dựa vào những học thuyết không còn phù hợp với nền văn minh nhân loại trong thời đại mới. Các học thuyết ấy gồm có: – Học thuyết Harmon về chủ quyền tuyệt đối. Nó cho phép quốc gia ở thượng nguồn quyền tự do làm bất kỳ điều gì họ muốn. Học thuyết này được Mỹ sử dụng vào đầu thế kỷ 20 trong việc phân chia nguồn nước với Mexico nhưng ngày nay bị tất cả các quốc gia phản đối. – Học thuyết toàn vẹn tuyệt đối của dòng sông: cấm tất cả các tác động lên dòng sông, vì quá khắt khe nên học thuyết này ít được sử dụng, – Học thuyết chủ quyền lãnh thổ hạn chế : được sử dụng rộng rãi, – Học thuyết tài sản chung: xem dòng sông là tài sản chung của tất cả các quốc gia ven sông. – Học thuyết quyền hạn tương liên: nhấn mạnh đến việc sử dụng có hiệu quả tài nguyên nước là quan trọng hơn quyền sở hữu tài nguyên này. Người ta kết luận rằng muốn tránh tranh chấp và xung đột, các cách ứng xử phải dựa theo các nguyên tắc sau: – Nhiệm vụ của các quốc gia là phải hợp tác và thương lượng để đạt đến thỏa thuận, – Nghiêm cấm những hành động có khả năng gây hại cho các quốc gia ven sông khác, – Nhiệm vụ tham khảo ý kiến trước hành động, – Tuân thủ nguyên tắc sử dụng công bằng và hợp lý các dòng chảy quốc tế. Trường hợp của việc sử dụng không công bằng các nguồn nước ở Trung Đông là những thí dụ điển hình của việc các quốc gia ở thượng nguồn tìm cách chiếm đoạt tài nguyên nước quốc tế mà không có thương lượng và thỏa thuận. |