Nhiều chuyên gia, nhà khoa học cho rằng, phát triển bền vững tài nguyên nước ở Tây Nguyên nói chung và Dak Lak nói riêng luôn là yêu cầu bức thiết. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, yếu tố bền vững ấy đang mất dần, thậm chí rất đáng lo ngại do nhiều nguyên nhân: biến đổi khí hậu, mất cân bằng sinh thái và quan trọng hơn là nạn khai thác, sử dụng nước bừa bãi đã khiến nguồn nước ngầm ở đây kiệt dần, nhất là vào thời kỳ cao điểm của mùa khô hàng năm.
Trong báo cáo, đánh giá mới đây của Viện Tài nguyên nước đã chỉ ra: những năm qua, rừng Tây Nguyên bị tàn phá nặng nề, cộng với những yếu tố bất lợi như mùa khô kéo dài, sự biến đổi thất thường của khí hậu đã làm cho lũ lụt, hạn hán trở nên trầm trọng hơn. Ngoài ra, Tây nguyên là thượng nguồn của 3 hệ thống sông lớn (Sêrêpôk- Sê San nằm ở phía Tây Bắc và sông Đồng Nai ở phía Nam), người dân tận lực khai thác nước ngầm ngay tại đầu nguồn để tưới cà phê, hoa màu, khiến mực nước ngầm không ngừng bị hạ thấp, dẫn đến quá trình sản xuất tại các vùng hạ lưu gặp khó khăn do thiếu nước. Hơn thế, là sự “mâu thuẫn” ngày càng gay gắt giữa việc trồng cây công nghiệp trên thượng nguồn với việc xây dựng, phát triển các khu dân cư và đô thị ở hạ nguồn. Từ những yếu tố không bền vững ấy, nhiều ý kiến cho rằng, các tỉnh ở khu vực Tây Nguyên phải sớm có quy hoạch sử dụng tài nguyên nước một cách đồng bộ và khoa học hơn để bảo đảm yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội trong hiện tại và tương lai, tránh khai thác nguồn nước ngầm (cũng như nước mặt) một cách vô tổ chức. Theo đó cần tính toán và quan tâm đến vấn đề cân đối khả năng lượng nước có thể khai thác của các vùng, các đơn vị sử dụng trên từng địa bàn. Riêng nước ngầm phải ưu tiên cho nhu cầu dân sinh, chứ không thể tìm cách vắt kiệt cho sản xuất nông nghiệp, nhất là tưới cà phê một cách tràn lan và không kiểm soát được như hiện nay.
Những vấn đề “sống còn” được lưu tâm trên, đến nay vẫn chưa được các tỉnh ở Tây Nguyên quan tâm đúng mức. Nhìn vào thực tế, câu chuyện về nước ngầm ở đây dường như đang “nóng” lên từng ngày vì tốc độ phát triển của nền sản xuất nông nghiệp ở Dak Lak cũng như Tây Nguyên đang ngày một “phình to”, kéo theo nhu cầu sử dụng nguồn nước càng lớn đến mức không còn khả năng kiểm soát nổi. Ông Dương Đình Hoành- Trưởng Phòng Tài nguyên nước và Khí tượng thủy văn (Sở Tài nguyên- Môi trường Dak Lak) nhận xét: việc khai thác tài nguyên nước ngầm trên địa bàn tỉnh đã vượt mức an toàn. Thông số đánh giá việc khai thác, sử dụng nước ngầm ở mức cho phép trên địa bàn Dak Lak đưa ra từ những năm 2000 là khoảng 4- 4,2 triệu m3/ngày, nay đã tăng lên rất nhiều. Dù chưa có con số thống kê chính xác, nhưng qua đánh giá của các cơ quan chức năng, con số này có thể lên tới gần 6 triệu m3 nước mỗi ngày. Rốt cuộc, một tất yếu xảy ra là mực nước ngầm ở đây trong vài năm qua đã tụt giảm đáng kể. Thống kê đưa ra từ năm 1998 cho thấy: tổng trữ lượng nước ngầm (ở trạng thái tĩnh, không có sự tác động bất thường của môi trường tự nhiên) tại Dak Lak là 120,9x 10 (lũy thừa 9) m3. Hiện nay, con số này đã thấp hơn rất nhiều, chỉ còn khoảng 1/3- Thạc sĩ Lê Ngọc Đỉnh ở Đoàn điều tra Tài nguyên nước 704 cho biết: sự giàu nghèo tài nguyên nước ở đây phụ thuộc vào lượng mưa, vào thành phần vật chất của lớp phủ bề mặt và mức độ lưu giữ nước của thành tạo địa chất từng vùng. Nếu để mất đi (hay suy giảm) một hoặc nhiều yếu tố trên sẽ khiến tài nguyên nước nghèo đi. Thực tế, ở Dak Lak nói riêng và Tây Nguyên nói chung đã để mất đi ngày càng nhiều yếu tố quan trọng và quyết định đó. Ngoài lượng mưa hàng năm có xu hướng ít đi, do mùa khô kéo dài, thì tình trạng mất rừng và sự thay đổi nhanh chóng của lớp phủ bề mặt trên thành tạo địa chất, mà cụ thể là trên đất (vì mục đích quy hoạch để trồng hoa màu, cây công nghiệp và nhiều dự án nông – lâm nghiệp khác) đã làm cho mực nước ngầm tụt giảm trung bình từ 3 đến 5m, có nơi 7 đến 8m. Qua khảo sát của Đoàn 704 cho thấy một số vùng như Krông Pak, Lak , Krông Buk và vùng phía Đông Buôn Ma Thuột … mực nước ngầm tiềm năng không còn nhiều như 5 năm trước. Ví dụ vùng Krông Pak, Lak… năm 2004 có thể khai thác tối đa 0,4-0,6 triệu m3/ngày, thì nay còn chưa đầy 400 nghìn m3/ngày. Điều đó cũng dễ thấy qua hoạt động sản xuất của nhiều nông hộ trồng cà phê ở đây. Chị Hoàng Thị Loan, ông Y Briu Ê Nhuôl ở xã Bình Thuận – thị xã Buôn Hồ cho biết: trước đây họ đào một cái giếng (từ 22-28 m) có thể tưới 2-3 ha cà phê trong vòng 10 giờ liên tục, bây giờ chỉ tưới khoảng 5 sào là kiệt nước, phải chờ nhiều giờ mới có nước hồi phục để tưới. Từ chỗ nhu cầu nước tưới quá bức xúc như vậy, nhiều hộ dân ở địa phương đã đua nhau khoan, đục rộng thêm đáy giếng để gom tụ nước tưới cho kịp thời vụ sản xuất cà phê vốn tự phát tràn lan trên địa bàn thị xã Buôn Hồ. Hơn thế, theo phản ánh của người dân ở đây, có nhiều gia đình còn thuê máy khoan địa chất (có đường kính 15cm) để khoan xuống lòng đất 70-80m, rổi dùng điện ba pha hút nước lên tưới cho cà phê, hồ tiêu…Điều này gây hậu quả khôn lường, làm thủng tầng nước ngầm ở nhiều nơi và là một trong những nguyên nhân trực tiếp đe dọa thêm tình trạng cạn kiệt nghiêm trọng lượng nước ngầm ở Dak Lak nói riêng, Tây Nguyên nói chung.
Rõ ràng đã đến lúc các tỉnh ở khu vực này phải chủ động hơn trong việc quy hoạch, khai thác và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên nước đang trở nên khan hiếm như hiện nay mới có thể bảo đảm cho việc phát triển kinh tế-xã hội một cách bền vững trong những năm tiếp theo. Nếu không, sự mất cân bằng và yếu tố bền vững nguồn nước tưới phục vụ cho sản xuất nông nghiệp ở đây sẽ ngày càng trở nên nóng bỏng thêm.
Những vấn đề “sống còn” được lưu tâm trên, đến nay vẫn chưa được các tỉnh ở Tây Nguyên quan tâm đúng mức. Nhìn vào thực tế, câu chuyện về nước ngầm ở đây dường như đang “nóng” lên từng ngày vì tốc độ phát triển của nền sản xuất nông nghiệp ở Dak Lak cũng như Tây Nguyên đang ngày một “phình to”, kéo theo nhu cầu sử dụng nguồn nước càng lớn đến mức không còn khả năng kiểm soát nổi. Ông Dương Đình Hoành- Trưởng Phòng Tài nguyên nước và Khí tượng thủy văn (Sở Tài nguyên- Môi trường Dak Lak) nhận xét: việc khai thác tài nguyên nước ngầm trên địa bàn tỉnh đã vượt mức an toàn. Thông số đánh giá việc khai thác, sử dụng nước ngầm ở mức cho phép trên địa bàn Dak Lak đưa ra từ những năm 2000 là khoảng 4- 4,2 triệu m3/ngày, nay đã tăng lên rất nhiều. Dù chưa có con số thống kê chính xác, nhưng qua đánh giá của các cơ quan chức năng, con số này có thể lên tới gần 6 triệu m3 nước mỗi ngày. Rốt cuộc, một tất yếu xảy ra là mực nước ngầm ở đây trong vài năm qua đã tụt giảm đáng kể. Thống kê đưa ra từ năm 1998 cho thấy: tổng trữ lượng nước ngầm (ở trạng thái tĩnh, không có sự tác động bất thường của môi trường tự nhiên) tại Dak Lak là 120,9x 10 (lũy thừa 9) m3. Hiện nay, con số này đã thấp hơn rất nhiều, chỉ còn khoảng 1/3- Thạc sĩ Lê Ngọc Đỉnh ở Đoàn điều tra Tài nguyên nước 704 cho biết: sự giàu nghèo tài nguyên nước ở đây phụ thuộc vào lượng mưa, vào thành phần vật chất của lớp phủ bề mặt và mức độ lưu giữ nước của thành tạo địa chất từng vùng. Nếu để mất đi (hay suy giảm) một hoặc nhiều yếu tố trên sẽ khiến tài nguyên nước nghèo đi. Thực tế, ở Dak Lak nói riêng và Tây Nguyên nói chung đã để mất đi ngày càng nhiều yếu tố quan trọng và quyết định đó. Ngoài lượng mưa hàng năm có xu hướng ít đi, do mùa khô kéo dài, thì tình trạng mất rừng và sự thay đổi nhanh chóng của lớp phủ bề mặt trên thành tạo địa chất, mà cụ thể là trên đất (vì mục đích quy hoạch để trồng hoa màu, cây công nghiệp và nhiều dự án nông – lâm nghiệp khác) đã làm cho mực nước ngầm tụt giảm trung bình từ 3 đến 5m, có nơi 7 đến 8m. Qua khảo sát của Đoàn 704 cho thấy một số vùng như Krông Pak, Lak , Krông Buk và vùng phía Đông Buôn Ma Thuột … mực nước ngầm tiềm năng không còn nhiều như 5 năm trước. Ví dụ vùng Krông Pak, Lak… năm 2004 có thể khai thác tối đa 0,4-0,6 triệu m3/ngày, thì nay còn chưa đầy 400 nghìn m3/ngày. Điều đó cũng dễ thấy qua hoạt động sản xuất của nhiều nông hộ trồng cà phê ở đây. Chị Hoàng Thị Loan, ông Y Briu Ê Nhuôl ở xã Bình Thuận – thị xã Buôn Hồ cho biết: trước đây họ đào một cái giếng (từ 22-28 m) có thể tưới 2-3 ha cà phê trong vòng 10 giờ liên tục, bây giờ chỉ tưới khoảng 5 sào là kiệt nước, phải chờ nhiều giờ mới có nước hồi phục để tưới. Từ chỗ nhu cầu nước tưới quá bức xúc như vậy, nhiều hộ dân ở địa phương đã đua nhau khoan, đục rộng thêm đáy giếng để gom tụ nước tưới cho kịp thời vụ sản xuất cà phê vốn tự phát tràn lan trên địa bàn thị xã Buôn Hồ. Hơn thế, theo phản ánh của người dân ở đây, có nhiều gia đình còn thuê máy khoan địa chất (có đường kính 15cm) để khoan xuống lòng đất 70-80m, rổi dùng điện ba pha hút nước lên tưới cho cà phê, hồ tiêu…Điều này gây hậu quả khôn lường, làm thủng tầng nước ngầm ở nhiều nơi và là một trong những nguyên nhân trực tiếp đe dọa thêm tình trạng cạn kiệt nghiêm trọng lượng nước ngầm ở Dak Lak nói riêng, Tây Nguyên nói chung.
Rõ ràng đã đến lúc các tỉnh ở khu vực này phải chủ động hơn trong việc quy hoạch, khai thác và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên nước đang trở nên khan hiếm như hiện nay mới có thể bảo đảm cho việc phát triển kinh tế-xã hội một cách bền vững trong những năm tiếp theo. Nếu không, sự mất cân bằng và yếu tố bền vững nguồn nước tưới phục vụ cho sản xuất nông nghiệp ở đây sẽ ngày càng trở nên nóng bỏng thêm.
(Theo DWRM)