Suy thoái tài nguyên nước lưu vực sông ở Việt Nam

nuoc_isponeViệt Nam có 2360 con sông, có chiều dài trên 10km, trong đó có 9 hệ thống sông lớn có diện tích lưu vực trên 10.000km2. Tổng lượng nước hàng năm chảy qua các sông, suối tới 835 tỷ m3, trong đó có 313 tỷ m3 sản sinh trên lãnh thổ Việt Nam còn lại 522 tỷ m3 từ lãnh thổ các nước ngoài chảy vào nước ta.

Tài nguyên nước dưới đất có trữ lượng động thiên nhiên toàn lãnh thổ khoảng 1500m3/s. Nguồn TNN tính theo đầu người ở nước ta hiện nay vào loại trung bình thấp so với thế giới và tiếp tục bị suy giảm do dân số tăng nhanh.

Do đặc điểm địa lý nước ta kéo dài theo phương kinh tuyến, địa hình bị chia cắt mạnh đã tác động trực tiếp tới sự ảnh hưởng của các chế độ gió mùa, là nguyên nhân gây ra sự phân bố rất không đồng đều về TNN theo thời gian và không gian. Hàng năm lượng nước tập trung trong 3-4 tháng mùa mưa chiếm tới 70-75%, chỉ riêng một tháng cao điểm trong mùa mưa có thể chiếm tới 30%. Trong khi về mùa khô, lượng nước chỉ chiếm 25-30%. Chính sự phân bố không đều này là nguyên nhân gây ra lũ, úng, lụt và các đợt hạn hán nghiêm trọng. Thiên tai, lũ lụt, bão, úng ngập, hạn hán, chua phèn, xâm nhập mặn thường xuyên là mối đe doạ đối với sản xuất và đời sống dân cư nhiều vùng của nước ta. Do vậy, việc điều hoà phân phối nguồn nước, khai thác mặt lợi của nước và giảm thiểu tác hại do nước gây ra cần phải được quản lý thống nhất theo LVS.

Tuy nhiên, hiện nay, vấn đề suy thoái TNN lưu vực sông diễn ra ngày càng nghiêm trọng. Suy thoái TNN trên LVS được biểu hiện ơ sự suy giảm sút về số lượng và đặc biệt là chất lượng. Trong những năm qua, sự tăng nhanh về dân số và khai thác quá mức TNN, các tài nguyên đất và rừng đã làm suy kiệt nguồn nước; việc phát triển đô thị và công nghiệp nhưng không có biện pháp quản lý chặt chẽ và xử lý các chất thải lỏng, thải rắn theo yêu cầu cũng đã làm ô nhiễm nguồn nước, cho nên suy thoái TNN đã trở thành khá phổ biến đối với các LVS, vì vậy Việt Nam được quốc tế xếp vào loại các quốc gia có TNN suy thoái.

Trước yêu cầu sử dụng nước còn tiếp tục gia tăng trong khi tài nguyên nước ngày càng cạn kiệt và suy thoái, cần phân tích rõ các nguyên nhân, đặc biệt là các nguyên nhân về quản lý để có các giải pháp ngăn chặn và giảm thiểu suy thoái đang phát triển nghiêm trọng này.

* Nguyên nhân suy thoái Tài nguyên Nước LVS ở Việt Nam: 

– Do sự gia tăng dân số quá nhanh

– Do khai thác quá mức TNN và các tài nguyên liên quan đến nước như đất, rừng khiến TNN bị suy kiệt. Ngoài ra, các hồ thuỷ điện lớn khi vận hành chỉ nhằm phục vụ cho phát điện cũng gây cạn kiệt dòng chảy cho hạ lưu. Mực nước của một số sông, như sông Hòng những năm gần dây xuống thấp ngoài nguyên nhân suy giảm lượng mưa còn do việc vận hành của các hồ Hoà Bình và các hồ loại vừa và lớn ở thượng nguồn thuộc đất Trung Quốc.

Việc Trung Quốc đã và sẽ xây dựng các đập lớn trên thượng nguồn sông Đà như đập Long Mạ cao 140m, đập Japudu cao 95m, đập Gelanta cao 113m với mục đích chính là phát điện thì ngay cả thuỷ điện Sơn La và Hoà Bình cũng bị ảnh hưởng do chế độ vận hành của các hồ này…, và các đập ở thượng nguồn sông Cửu Long, sẽ gây ảnh hưởng tới chế độ thuỷ văn, cũng như sự bồi lắng của đồng bằng sông Cửu Long… không chỉ gây ảnh hưởng lớn tới điều kiện tự nhiên mà còn ảnh hưởng tới các mặt kinh tế – xã hội.

– Do chưa kiểm soát được các nguồn thải và chưa quan tâm đầu tư thoả đáng cho các hệ thống thu gom, xử lý các chất thải lỏng, thải rắn. Tốc độ đô thị hoá, công nghiệp hoá, làng nghề thủ công ngày càng mở rộng, lượng chất thải rắn, thải lỏng chưa kiểm soát được thải vào nguồn nước sẽ gây ô nhiễm suy thoái nhanh các nguồn nước mặt, nước dưới đất, làm gia tăng tình trạng thiếu nước và ô nhiễm nước, nhất là về mùa khô, điển hình nhất là ở sông Nhuệ, sông Thị Vải…

– Do tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu. Khí hậu toàn cầu đang nóng lên đã và sẽ tác động nhiều đến TNN. Nhiều dự báo trên thế giới và ở trong nước đã cho thấy khi nhiệt độ không khí tăng bình quân 1,50 thì tổng lượng dòng chảy có thể giảm khoảng 5%. Ngoài ra, khi trái đất nóng lên, băng tan nhiều hơn sẽ làm nước biển dâng cao, mặn sẽ xâm nhập sâu hơn ở những vùng đồng bằng thấp khiến nguồn nước ngọt phân bố trên các sông chảy ra biển sẽ bị thu hẹp lại. Tất cả những điều đó sẽ làm suy thoái thêm nguồn nước khiến không có đủ nguồn nước ngọt để phục vụ cho sản xuất đời sống.

– Do những nguyên nhân về quản lý:

Về tổ chức: nguyên nhân khách quan là do còn gặp nhiều khó khăn về tổ chức quản lý TNN, quản lý LVS ở cấp Bộ và tổ chức có hiệu lực ở cấp LVS để quản lý TNN.

Về quy hoạch: trong thời gian vừa qua, Nhà nước đã đầu tư nhiều kinh phí cho các Bộ, ngành làm quy hoạch. Nhưng do nội dung lập quy hoạch và sự phối hợp giữa các ngành trên LVS chưa gắn bó, nên quy hoạch của các ngành còn nặng về khai thác phục vụ riêng cho chuyên ngành của mình, do vậy cần thiết cần có quy hoạch tổng hợp LVS  trong đó có quy hoạch bảo vệ TNN, quy hoạch thoát và xử lý nước thải, các chất thải rắn cho các đô thị, khu công nghiệp, làng nghề thủ công làm cơ sở cho việc quản lý và đưa quy hoạch bảo vệ này vào kế hoạch thực hiện hàng năm như là thực hiện quy hoạch phát triển thuỷ lợi, thuỷ điện, cấp nước đô thị, công nghiệp….

* Giải pháp giảm thiểu suy thoái tài nguyên nước trên lưu vực sông 

Để bảo vệ và phát triển bền vững nguồn TNN, giảm thiểu khó khăn về suy thoái TNN cho các LVS, trong đó Chiến lược TNN của mình, các quốc gia đều coi trọng các biện pháp công trình và phi công trình.

Biện pháp công trình 

Xây dựng các hồ chứa thượng lưu để điều tiết nguồn nước vận hành theo quy trình hợp lý đồng thời xây dựng các công trình khai thác lấy nước mặt, nước dưới đất ở trung lưu và hạ lưu các LVS nhằm đáp ứng cho các nhu cầu sử dụng nước và duy trì dòng chảy môi trường; trong điều kiện cần thiết và cho phép thì còn phải xây dựng các công trình chuyển nước lưu vực để giải quyết cho những vùng khan hiếm nước mà các nguồn nước trong lưu vực không đáp ứng được. Đến nay trên toàn thế giới, các hồ chứa có tổng dung tích điều tiết được 6.000 tỷ m3, chiếm 14% tổng lượng dòng chảy. Ở Việt Nam tổng dung tích điều tiết của hồ chứa đã và đang xây dựng cho đến nay đạt gần 30 tỷ m3, chiếm 9% tổng lượng dòng chảy nội địa.

Phát triển các hệ thống thu gom và xử lý các loại chất thải. Đối với sông nội đô cần tăng cường nạo vét, làm cống hộp lớn để chuyển tải và dẫn thêm nguồn nước sạch ở sông hồ vào nhằm pha loãng và đẩy nguồn nước bẩn này đến những trạm xử lý; đẩy mạnh việc xây dựng các trạm xử lý nước tải và chất thải rắn tập trung và phân tán.

Đẩy mạnh trồng rừng, nâng cao độ che phủ và sử dụng hợp lý tài nguyên đất nhằm điều hoà nguồn nước, giảm lũ, tăng lưu lượng mùa kiệt.

Biện pháp phi công trình 

Tại Hội nghị Thượng đỉnh Jonhannesburg – Nam Phi 2002, nước đã được xếp vị trí hàng đầu trong phát triển. Liên hợp Quốc lấy ngày 22-3 hàng năm là ngày quốc tế về nước để mọi người và các cơ quan chức năng nâng cao nhận thức và trách nhiệm đối với việc quản lý bảo vệ và phát triển bền vững nguồn TNN. Công tác quản lý TNN ở Việt Nam trong những năm qua đã được quan tâm và đạt được nhiều tiến bộ, tuy nhiên do tính chất phức tạp và mới mẻ nên đang được tiếp tục hoàn thiện.

Về tổ chức: Giữa tháng 3/2007, Chính phủ đã quyết định hợp nhất nhiệm vụ quản lý LVS vào chức năng quản lý TNN. Đây cũng là xu thế tổ chức của Thế giới và các nước ASEAN trong việc tách quản lý ra khỏi sử dụng, gắn việc quản lý số lượng với chất lượng, gắn quản lý nước mặt với nước dưới đất. Trách nhiệm quản lý nhà nước về TNN cũng như LVS thuộc về Bộ Tài nguyên và Môi trường nhưng vẫn cần phải có sự phối hợp liên ngành nhất là các ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, ngành điện cấp thoát nước, thuỷ sản với ngành tài nguyên và môi trường.

Về quy hoạch: Hiện nay, quy hoạch thuỷ lợi, thuỷ điện, cấp nước…đã được Bộ NN&PTNT, Bộ Công nghiệp, Bộ Xây dựng…và các Bộ liên quan xây dựng, đã và đang được triển khai mạnh mẽ. Để quản lý tổng hợp LVS, cần sớm hoàn chỉnh và trình duyệt chính thức quy hoạch các LVS trọng điểm bao gồm quy hoạch phát triển và quy hoạch bảo vệ nhằm hài hoà lợi ích giữa thượng lưu, hạ lưu, giữa các đôi tượng sử dụng nước để việc sử dụng được tiết kiệm, đạt hiệu quả và bền vững.

Trước thực trạng suy thoái TNN ở LVS đang gia tăng thì quy hoạch bảo vệ càng phải được coi trọng và cần được đầu tư thực hiện quy hoạch bảo vệ với tỷ trọng thảo dáng so vơi tổng nguồn kinh phí đầu tư cho phát triển. Việc quản lý thực hiện quy hoạch tổng hợp LVS ngoài ngành chủ quản thì các ngành khai thác sử dụng nước và các địa phương liên quan đều có nhiệm vụ tham gia với tinh thần cộng tác vì mục tiêu phát triển bền vững.

Về các văn bản và chính sách:

Các Bộ, ngành chức năng cần nhanh chóng hoàn thiện các văn bản liên quan đến quản lý của ngành mình. Riêng về chính sách phí ô nhiễm, cần có lộ trình nâng dần càng sớm càng tốt để tạo nguồn kinh phí cho xử lý nước.

Về thuế TNN ở Việt Nam cũng cần đánh giá lại mức thu cho phù hợp.

Về sử dụng tiết kiệm nguồn TNN:

Đối với một số LVS gặp khó khăn về TNN: Cần xây dựng mục tiêu sử dụng nước tiết kiệm trong tất cả các đối tượng sử dụng nước nông nghiệp, công nghiệp, đô thị, dịch vụ…sao cho có hiệu quả hơn.

Đối với việc tiết kiệm nước trong nông nghiệp: Kinh nghiệm chỉ đạo của Cục quản lý Tưới tiêu và Cấp nước nông thôn ở Trung Quốc cho thấy: trong chương trình hoàn chỉnh và hiện đại hoá các hệ thống thuỷ nông ở Trung Quốc đã tăng thêm được 6,67 triệu ha, được tưới và tiết kiệm hàng năm được 20 tỷ m3 nước. Ở Việt Nam nếu thực hiện theo chương trình này thì có thể sẽ nâng cao thêm được diện tích tưới tiêu và tiết kiệm được rất nhiều nước.

Các ngành sử dụng nước khác nhau cũng cần có chương trình sử dụng nước tiết kiệm. Riêng đối với thuỷ điện, cần có quy trình vận hành hợp lý để vừa đảm bảo yêu cầu ngành điện và phục vụ các yêu cầu sử dụng nước ở hạ lưu cũng như duy trì động thái của dòng chảy.

(Theo isponre.gov.vn)