“Toàn bộ hồ chứa thủy điện ở miền Trung không đủ dung tích phòng lũ, không có nhiệm vụ chống lũ cho hạ du mà chủ yếu để phát điện”, GS.TS Ngô Đình Tuấn, Chủ tịch Hội đồng khoa học Viện Tài nguyên nước và môi trường Đông Nam Á đã nói như vậy khi trao đổi với báo chí.
– Xin ông cho biết bức tranh tổng thể về thủy điện miền Trung hiện nay?
– Hầu như tất cả tỉnh miền Trung đều có công trình thủy điện khá lớn như Bản Vẽ (Nghệ An), Rào Quán (Quảng Trị), Bình Điền, Cổ Bi (Thừa Thiên – Huế). Vào trong nữa thì có A Vương, Sông Tranh 2, Đa Mi 4, Định Bình… Đây là những công trình nằm trong quy hoạch của Nhà nước, được Thủ tướng, Bộ Công Thương phê duyệt. Ngoài ra, do phân cấp quản lý nên các thủy điện nhỏ được huyện, xã đề nghị làm và có rất nhiều.
Vì thế mới có thực tế là nhiều đập xen vào giữa những công trình thủy điện cấp Trung ương. Ví dụ trên sông Ba có hơn 30 công trình lớn nhỏ, nhánh sông Bồ ở thượng nguồn đã có 5; rồi sông Kôn… Đầu tư công trình thủy điện nhỏ này chủ yếu là tư nhân, vốn bỏ ra ít, mà hưởng lợi nhiều do làm dung tích hồ nhỏ, ngập ít, lợi dụng nước và cột nước các hồ ở thượng nguồn xả xuống.
– Số lượng các công trình thủy điện dày đặc trên một hệ thống sông gây nên rủi ro gì, thưa ông?
– Nếu làm một công trình lớn thì diện tích ngập nhiều nhưng chia năm xẻ bảy ra mực nước thấp xuống, không ngập nên người dân, chính quyền địa phương không ai phản đối. Ví dụ trên sông Đồng Nai, Thủy điện Đồng Nai bậc 6 thì chia làm 6 và 6A. Thủy điện 8 chia ra 5 bậc thang. Nhiều bậc thang thì hạ thấp mực nước xuống, nhưng hạ thấp thì xác suất rủi ro lớn hơn nếu bị vỡ, vì vỡ là vỡ dây chuyền.
Các hồ nhỏ, tư nhân làm thì diện tích ngập ít, tràn nhỏ, mức độ bảo đảm an toàn thấp. Trong quy hoạch chúng ta chưa giải quyết được bất hợp lý này. Đáng ra phải rà soát lại cái nào được xây, cái nào không.
– Những năm gần đây, câu chuyện “thủy điện xả lũ, dân lãnh đủ” liên tục diễn ra ở miền Trung. Ông chia sẻ như thế nào về điều này?
– Thực tế không phải có thủy điện thì làm tăng lũ. Lũ tăng do các nguyên nhân như biến đổi khí hậu, mặt đệm tức là lớp phủ bị tàn phá. Mặt khác, khi không có quy trình vận hành liên hồ chứa hoặc quy trình vận hành độc lập, hợp lý thì xả nước sẽ gây lũ chồng lũ. Nếu có quy trình vận hành liên hồ thì sẽ hạn chế thấp nhất. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc vào độ chính xác của dự báo lũ, dự báo tốt thì mới khống chế được, không để xảy ra lũ chồng lũ.
Thực tế, toàn bộ công trình hồ chứa thủy điện ở miền Trung không đủ dung tích phòng lũ. Chỉ có 2 hồ thủy lợi có dung tích phòng lũ đáng kể là hồ Phú Ninh (Tam Kỳ – Quảng Nam) 300 triệu m3 và Tả Trạch (Thừa Thiên – Huế) 500 triệu m3, nhưng chưa xây dựng xong. Các công trình thủy điện ở miền Trung không có nhiệm vụ chống lũ cho hạ du mà chỉ làm thế nào bảo vệ an toàn hồ chứa trong khi vận hành và hiệu quả phát điện cao nhất, tức là đảm bảo dung tích luôn ở mực nước dâng bình thường (luôn đầy).
– Hiện các công trình thủy điện thông báo xả lũ trước 2 giờ, trong khi người dân cần ít nhất 6-8 giờ để chuẩn bị đối phó, ông nghĩ sao về điều này?
– Quy định thông báo 2 giờ trước khi vận hành, mở cửa xả đầu tiên được các tỉnh đồng tình hết. Quy định này căn cứ vào khả năng dự báo và điều kiện thực tế chứ không phải cứ muốn thông báo sớm là được.
Ở miền Trung, sông ngắn, hẹp, dốc trong khi mưa lũ lớn thường xuyên xảy ra, có khi mưa chưa đầy 2h lũ đã lên rồi. Một bất hợp lý nữa là mạng lưới quan trắc đo mưa ở miền Trung rất thưa, rất ít trạm tự ghi như ngoài Bắc; chỉ đo mưa 12 giờ và mưa 24 giờ không có 6 hay 3 giờ, nếu có thì trạm ở thị xã ven biển trong khi lũ thì ở thượng nguồn.
Tất nhiên, chúng ta hoàn toàn có thể tăng thời gian thông báo trước khi xả lũ, nhưng với 3 điều kiện: nâng cao năng lực dự báo mưa lũ; bổ sung các trạm đo mưa, ví dụ lưu vực sông Ba có khu vực gần 5.000 km2 mới có một trạm; và phải nghiên cứu, cập nhật qua vài ba năm xả lũ.
– Nếu xét về mặt chi phí, để tăng thời gian dự báo thêm một giờ thì tốn kém như thế nào?
– Vấn đề ở đây không phải bài toán kinh tế. Dự báo càng sớm thì an toàn cho người dân, thêm thời gian sơ tán, nhưng kéo dài phải đi cùng độ chính xác cao. Nếu vài lần thiếu chính xác dân chủ quan thì rất nguy hiểm.
Chúng ta cần nâng cao khả năng dự báo cho chủ hồ, vì các chủ hồ quyết định phương án giữ hay xả nước. Họ thuê đài khí tượng địa phương thì ta phải nâng cao kiến thức cho những người ấy. Chính phủ không ngại tốn tiền trong việc dự báo ứng phó thiên tai, nhưng vấn đề làm thế nào hiệu quả. Cái này phải có thời gian đào tạo, ứng dụng mô hình toán đo được độ chính xác.
– Trong ngành công nghiệp năng lượng, thủy điện được coi là lạc hậu. Trong điều kiện Việt Nam, chiến lược phát triển thủy điện cần đặt ở vị trí như thế nào cho phù hợp?
– Trên thế giới, các nước đã phát triển đều qua giai đoạn phát triển ồ ạt thủy điện. Sau đó vì khai thác nhiều, bùn cát lấp đi hồ chứa, đồng thời gây hệ lụy với dòng chảy hạ lưu nên người ta phải bỏ. Ví dụ ở Mỹ, có những công trình khi không còn đảm bảo dòng chảy cho hạ du, ảnh hưởng tới động vật thủy sinh như cá hồi, sản phẩm thương nghiệp có giá trị cao, thì sau khi hoàn vốn người ta phá bỏ.
Việt Nam còn nghèo buộc phải khai thác thủy điện chứ làm gì có vốn đầu tư ngay vào điện nguyên tử hay các công nghệ tiên tiến khác. Chưa kể phải có trình độ, đội ngũ nhân lực vận hành. Hoàn cảnh hiện nay buộc chúng ta phải thế. Còn theo quy hoạch, đến 2025, tất cả nhà máy thủy điện lớn và vừa đã làm xong. Sau đó, chúng ta chỉ phát triển thủy điện tích năng, điện nguyên tử. Sau khi có điện nguyên tử, điện khí, thủy điện chỉ còn chiếm 25% tổng sản lượng và sẽ ngày càng giảm xuống.
Theo V.N.E