Đắk Lắk: Nhiều công trình cấp nước tập trung bị bỏ hoang

Lần đầu tiên tỉnh Đắk Lắk thực hiện tổng khảo sát, điều tra một cách bài bản về thực trạng các công trình cấp nước tập trung (CTCNTT) trên địa bàn tỉnh. Kết quả thực sự làm cho những người có trách nhiệm giật mình: Chỉ một số ít CTCNTT hoạt động tốt hoặc ở mức trung bình, còn lại 60% CTCNTT đang bị bỏ hoang hoặc hoạt động kém hiệu quả. Cuộc khảo sát cũng đưa ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, qua đó tìm các giải pháp khắc phục.
 
* Hệ lụy từ kiểu “làm chủ tập thể” một cách hình thức
Để đánh giá thực trạng hoạt động của các CTCNTT, tỉnh Đắk Lắk đã ký hợp đồng thuê   Liên hiệp các hội khoa học của tỉnh thực hiện cuộc điều tra, khảo sát một cách toàn diện toàn bộ các CTCNTT có quy mô vừa và lớn trên địa bàn. Theo đó, nhóm các nhà khoa học thực hiện dự án điều tra đã phân loại đánh giá hiệu quả hoạt động các CTCNTT theo các bậc: tốt, trung bình, yếu kém, không hoạt động và chưa hoạt động. Trong số 82 CTCNTT quy mô lớn và vừa trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk chỉ có 16 công trình tốt, 17 công trình trung bình; 49 công trình còn lại đều trong tình trạng bị bỏ hoang, hoạt động yếu kém, hoặc chưa hoạt động dù đã quá thời hạn thi công theo cam kết (chiếm 60%).
Có thể kể tên hàng loạt CTCNTT ở Đắk Lắk đang bị bỏ hoang như: Buôn Tul (huyện Buôn Đôn), Cư Kbang (Ea Súp), Buôn Trắp (huyện Krông Năng), Đray Linh (TP. Buôn Ma Thuột)… Đặc biệt, cụm 5 CTCNTT mới được xây dựng từ năm 2008 đến nay, với vốn đầu tư từ dăm bảy tỷ đến hàng chục tỷ đồng đang trong tình trạng không hoạt động, bị bỏ hoang, gồm: Ea Tul (huyện Cư M’gar), Ea Rốk (huyện Ea Súp), Ea M’lay (huyện MĐrắk), Ea Tóh (huyện Krông Năng), Cư Kty (huyện Krông Bông). Những CTCNTT “hữu danh vô thực” này không chỉ làm lãng phí lớn về tiền bạc, mà còn làm giảm ý nghĩa về mục đích an sinh – chính trị – xã hội, giảm niềm tin của người dân. Hư hỏng, xuống cấp, nước không chảy, bị bỏ hoang… trở nên quá phổ biến đối với các CTCNTT ở Đắk Lắk do chính quyền cấp xã và các tổ chức dưới xã quản lý, vận hành. Nguyên nhân của tình trạng này được “đúc” thành “mẫu số chung” là do chất lượng thiết kế thi công kém, ý thức của người sử dụng kém…
Kết quả của cuộc điều tra đã chỉ ra rằng: các công trình bị bỏ hoang, hoạt động kém hiệu quả là do lâu nay hầu như không có ai quản lý, vận hành. Các CTCNTT giao cho chính quyền xã thường do một Phó Chủ tịch xã phụ trách, vị Phó Chủ tịch này sau đó sẽ giao công trình cho một số cộng tác viên rồi phó mặc. Kết quả là: trong số 35 công trình giao chính quyền xã quản lý, vận hành, có tới 31 công trình không hoạt động hoặc hoạt động cực kỳ yếu kém, chỉ có 4 công trình xếp loại trung bình, không có công trình nào được xếp loại tốt; 32 công trình do các HTX, hội dùng nước quản lý, cũng có đến 18 công trình bị bỏ hoang hoặc hoạt động cực kỳ yếu kém, số còn lại đang hoạt động cầm chừng. Một số CTCNTT do cấp xã và dưới xã quản lý, dù theo báo cáo là vẫn đang có nước, nhưng do nước đầu nguồn ô nhiễm, các bể lắng, thiết bị lọc… lâu ngày không được làm vệ sinh, xả thải, xả cặn, xả khí độc, nên rõ ràng là quá “xa xỉ” nếu gọi nước của các công trình này là nước sạch.
 
* Giải pháp khắc phục
Tiến sỹ Tôn Nữ Tuấn Nam, phụ trách nhóm điều tra khảo sát cho biết: Khi thực hiện khảo sát tại 15 CTCNTT do Trung tâm nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn (TTNSH&VSMTNT) tỉnh Đắk Lắk quản lý, có tới 14 công trình xếp loại tốt, chỉ 1 công trình xếp loại trung bình. Điều này cho thấy, “căn bệnh” của các CTCNTT bị bỏ hoang hoặc hoạt động yếu kém không phải là không có “thuốc chữa”.
Theo ông Phạm Phú Bổn, Giám đốc TTNSH&VSMTNT tỉnh Đắk Lắk: Chẳng phải trung tâm có bí quyết gì ghê gớm trong công tác quản lý, vận hành các CTCNTT, mà đó chỉ là kết quả của việc thực hiện một cách bài bản. Trung tâm cũng lấy người tại địa phương để quản lý, vận hành công trình. Sau khi ký hợp đồng làm việc, những người này được Trung tâm đào tạo bài bản về chuyên môn, sau đó cứ 2 năm sẽ được thi nâng ngạch một lần, theo tiêu chuẩn của công nhân kỹ thuật. Các quyền lợi khác như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế… được bảo đảm nên họ yên tâm làm việc, có trách nhiệm. Các phòng như: phòng kỹ thuật, phòng dịch vụ, phòng tuyên truyền luôn thực hiện rất tốt nhiệm vụ chuyên môn… Các hư hỏng, sự cố được khắc phục kịp thời. Sắp tới, Trung tâm sẽ có bộ phận chuyên trách xét nghiệm để đảm bảo chất lượng nước và quyền lợi người dùng nước.
Từ kết quả thực tế của cuộc điều tra khảo sát, nhóm các nhà khoa học đã đề xuất khắc phục các công trình bị bỏ hoang, hoặc hoạt động kém hiệu quả. Đó là, xác định các đơn vị có đủ năng lực quản lý, vận hành (ở đây là TTNSH&VSMTNT tỉnh Đắk Lắk) để chuyển giao các công trình ít hư hỏng, việc sửa chữa, khắc phục ít tốn kém, trong khi nhu cầu dùng nước từ CTCNTT của người dân ở vùng này giao cho đơn vị này quản lý. Tức là sửa chữa đi đôi với thay đổi mô hình quản lý, vận hành. Đối với các công trình ở những vùng mà người dân không mặn mà với việc sử dụng nước từ CTCNTT thì kiên quyết cho gỡ bỏ. Theo dự kiến, cần khoảng 2 năm để khắc phục hư hỏng và đưa các công trình vốn bị bỏ hoang vào hoạt động trở lại. Tỉnh cũng cần hạn chế việc đầu tư mới để tập trung kinh phí cho việc sửa chữa các công trình cũ bị hư hỏng.
Với những giải pháp này, hi vọng sẽ mở ra cơ hội mới để thanh toán những hệ luỵ từ kiểu “làm chủ tập thể” một cách hình thức mà kết quả của nó là làm cho hàng loạt CTCNTT ở Đắk Lắk không phát huy tác dụng.
 

 

 (Theo Monre.gov.vn)