Cục trưởng Cục Quản lý Tài nguyên nước Hoàng Văn Bẩy: Luật Tài nguyên nước hướng đến mục tiêu bảo vệ, khai thác hiệu quả, phát triển bền vững tài nguyên nước

vv126Luật Tài nguyên nước được Quốc hội thông qua ngày 21/6/2012 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2013 đã bổ sung nhiều quy định, điều khoản mới tập trung cho việc quản lý, bảo vệ và giữ gìn nguồn nước. Đây là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong bối cảnh hiện nay. Nhân dịp này, phóng viên báo TN&MT (PV) đã có cuộc trao đổi với ông Hoàng Văn Bẩy, Cục trưởng Cục Quản lý Tài nguyên nước (CTr. HVB) về một số nội dung của Luật.

Ông Hoàng Văn Bẩy cho biết: Luật Tài nguyên nước vừa được Quốc hội XIII thông qua ngày 21 tháng 6 năm 2012, tại kỳ họp thứ 3 gồm có 10 chương, 79 điều và thay thế Luật Tài nguyên nước hiện hành. Luật quy định về quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra thuộc lãnh thổ Việt Nam. Những vấn đề về nước khoáng, nước nóng thiên nhiên, nước biển và nước dưới đất thuộc vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của nước ta và việc phòng, chống, khắc phục hậu quả tác hại của nước do thiên tai gây ra được điều chỉnh bằng pháp luật khác.

PV: Thưa Cục trưởng, Luật Tài nguyên nước vừa được Quốc hội thông qua. Xin ông cho biết mục đích, ý nghĩa của văn bản Luật này?

CTr. HVB: Sau hơn 12 năm thi hành, nhiều quy định của Luật Tài nguyên nước năm 1998 đến nay không còn phù hợp với thực tiễn cần điều chỉnh, đồng thời cũng có nhiều vấn đề mới trong khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống, khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra và một số vấn đề khác phát sinh trong thực tiễn, đòi hỏi cần được bổ sung vào nội dung của Luật. Vì vậy, việc ban hành Luật tài nguyên nước, thay thế cho Luật Tài nguyên nước năm 1998 có ý nghĩa hết sức quan trọng. Khắc phục những bất cập, Luật tài nguyên nước mới ban hành được xem là sẽ mở đường cho các hoạt động hướng đến mục tiêu bảo vệ, khai thác hiệu quả, phát triển bền vững tài nguyên nước quốc gia, tạo động lực phát triển bền vững ngành kinh tế nước nhiều thành phần phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Luật sẽ phát huy tác dụng điều chỉnh và phù hợp với thực tiễn của cuộc sống và tình hình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, đáp ứng yêu cầu quản lý tổng hợp và thống nhất tài nguyên nước, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước bền vững, hiệu quả hơn; tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về tài nguyên nước; nâng cao hiệu quả hợp tác, bảo đảm hài hoà lợi ích giữa các nước có chung nguồn nước với nước ta….

PV: Những điểm mới được đưa vào trong lần sửa đổi, bổ sung lần này là gì, thưa ông?

CTr. HVB: Luật Tài nguyên nước vừa được Quốc hội thông qua có nhều quy định mới, cơ bản khắc phục được những tồn tại của Luật Tài nguyên nước 1998. Đối tượng quản lý TNN không còn bị bó hẹp chỉ về chất lượng và số lượng nước mà đã được mở rộng đến việc quản lý cả lòng, bờ bãi sông cũng như việc thiết lập các công cụ, biện pháp kinh tế trong quản lý TNN. Kế thừa Luật tài nguyên nước năm 1998, một số nội dung đã được quy định rõ ràng, cụ thể và chi tiết hơn. Đồng thời, nhiều quy định mới được bổ sung trong Luật, phù hợp và đáp ứng được yêu cầu chung về quản lý tài nguyên nước trong gian đoạn hiện nay và trong thời gian tới. Có thể khái quát những điểm mới trong Luật theo các nhóm nội dung như sau:

Về quy định chung: Ngoài việc chỉnh sửa, điều chỉnh, bổ sung một số nội dung về phạm vi điều chỉnh, nguyên tắc, chính sách về tài nguyên nước nhằm coi tài nguyên nước là tài sản của nhà nước, thực hiện chủ trương kinh tế hóa, khai thác, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả và thực hiện quản lý tổng hợp, thống nhất tài nguyên nước theo lưu vực sông kết hợp với quản lý theo địa bàn hành chính, Luật đã bổ sung quy định nhiều vấn đề chung khác như: tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về tài nguyên nước; lấy ý kiến của cộng đồng dân cư và tổ chức, cá nhân liên quan trong khai thác, sử dụng TNN, xả nước thải vào nguồn nước; danh mục lưu vực sông.

Về điều tra cơ bản, Chiến lược, Quy hoạch tài nguyên nước: Đây là chương mới trong Luật, bao gồm những quy định nhằm tăng cường công tác điều tra cơ bản tài nguyên nước và quản lý TNN theo chiến lược, quy hoạch, gồm các quy định về: trách nhiệm của Nhà nước trong điều tra cơ bản tài nguyên nước; quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước; các hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên nước; chiến lược tài nguyên nước; quy nhoạch tài nguyên nước; nguyên tắc, căn cứ lập quy hoạch tài nguyên nước; nội dung của các loại (quy hoạch tài nguyên nước chung của cả nước; quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông liên tỉnh, nguồn nước liên tỉnh và quy hoạch tài nguyên nước của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương);…

Về Bảo vệ tài nguyên nước:Luật bổ sung quy định cụ thể về các biện pháp phòng, chống ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước; các biện pháp ứng phó và khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn nước; giám sát tài nguyên nước; bảo vệ và phát triển nguồn sinh thủy; hành lang bảo vệ nguồn nước; bảo đảm sự lưu thông dòng chảy,… nhằm tăng cường các biện pháp phòng chống ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước và bảo vệ các dòng sông. Đồng thời, Luật cũng đã chỉnh sửa, bổ sung một số nội dung quy định về bảo vệ nước dưới đất; bảo vệ nguồn nước sinh hoạt; xả nước thải vào nguồn nước và quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân được cấp phép xả nước thải vào nguồn nước nhằm tăng cường các biện pháp bảo vệ nước dưới đất và quản lý, giám sát chặt chẽ các hoạt động xả nước thải vào nguồn nước,…

Về khai thác, sử dụng tài nguyên nước: Luật đã bổ sung các quy định về tiết kiệm nước nhằm thực hiện chủ trương chống lãng phí trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước, các quy định về chuyển nước lưu vực sông; điều hòa, phân phối tài nguyên nước; thăm dò, khai thác nước dưới đất và các quy định về khai thác, sử dụng nước cho sinh hoạt. Đồng thời, Luật cũng đã bổ sung các biện pháp để quản lý quy hoạch, xây dựng và khai thác sử dụng nước của hồ chứa nhằm khai thác, sử dụng tổng hợp, hiệu quả tài nguyên nước.

Về phòng, chống, khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra:Luật chỉ tập trung điều chỉnh phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại của nước do hoạt động liên quan khai thác, sử dụng tài nguyên nước của con người gây ra như phòng chống hạn hán, lũ, lụt, ngập úng nhân tạo, xâm nhập mặn, sụt, lún đất, sạt, lở bờ, bãi sông. Còn việc phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại của lũ, lụt, nước biển dâng,… và các tác hại khác của nước do thiên tai gây ra được thực hiện theo quy định của pháp luật về đê điều, phòng, chống lụt, bão và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Về tài chính về tài nguyên nước: Đây là một chương mới trong Luật, trong đó quy định một số trường hợp khai thác tài nguyên nước phải nộp tiền cho nhà nước như: thủy điện, kinh doanh, dịch vụ, sản xuất phi nông nghiệp và khai thác nước dưới đất. Những quy định này nhằm coi nước là tài sản của nhà nước, bảo đảm lợi ích của Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở hữu TNN, nâng cao ý thức và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc khai thác, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả và bảo đảm sự công bằng.

Về trách nhiệm quản lý tài nguyên nước: Luật đã quy định cụ thể hơn trách nhiệm quản lý nhà nước về TNN của Bộ Tài nguyên và Môi trường, các bộ, ngành và của chính quyền địa phương các cấp; bổ sung quy định về việc điều phối, giám sát lưu vực sông nhằm tăng cường trách nhiệm phối hợp trong việc điều phối, giám sát các hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ TNN và phòng, chống tác hại do nước gây ra bảo đảm tính hệ thống, thống nhất của TNN trên lưu vực sông và huy động sự tham gia của các bộ, ngành, địa phương liên quan trong việc giải quyết những vấn đề về tài nguyên nước trong khuôn khổ lưu vực sông.

PV: Như ông vừa nói, khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân sử dụng tiết kiệm nước là một trong những điểm mới của Luật Tài nguyên nước sửa đổi. Vấn đề này được thể hiện cụ thể trong Luật thế nào, thưa ông?

CTr. HVB: Đúng vậy. Trong bối cảnh nguồn nước thế giới và Việt Nam đang có xu hướng khan hiếm, cạn kiệt như hiện nay thì việc sử dụng tiết kiệm nước cần phải được đề cao và có các hình thức khuyến khích. Vì thế, trong Luật đã bổ sung các quy định về nguyên tắc khai thác, sử dụng tài nguyên nước phải tiết kiệm, an toàn, có hiệu quả, bảo đảm sử dụng tổng hợp, đa mục tiêu, công bằng, hợp lý, hài hòa lợi ích, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các tổ chức, cá nhân. Theo đó, tổ chức, cá nhân đầu tư sử dụng nước tuần hoàn, tái sử dụng nước, thu gom, sử dụng nước mưa, sử dụng nước được khử muối từ nước lợ, nước mặn, đầu tư thiết bị, công nghệ tiết kiệm nước, được vay vốn ưu đãi và miễn, giảm thuế theo quy định của pháp luật. Đồng thời, nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân nghiên cứu khoa học, ứng dụng, phát triển công nghệ xử lý nước thải, cải tạo, phục hồi nguồn nước bị ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt, tái sử dụng nước và công nghệ khác nhằm sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả. Bên cạnh đó, quy định về thu tiền khai thác tài nguyên nước đối với một số trường hợp nêu trên cũng là một biện pháp kinh tế nhằm hướng tới xây dựng một xã hội sử dụng nước tiết kiệm.

PV: Trách nhiệm của Bộ TN&MT và các Bộ, ngành trong quản lý tài nguyên nước được quy định trong Luật Tài nguyên nước thế nào, thưa Cục trưởng?

CTr. HVB: Luật Tài nguyên nước khẳng định Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về tài nguyên nước.

Về vấn đề này như tôi đã nói ở trên, Luật tài nguyên nước mới đã quy định cụ thể trách nhiệm quản lý nhà nước về TNN của Bộ Tài nguyên và Môi trường, các bộ, ngành liên và của chính quyền địa phương các cấp, thậm chí đến cấp xã; những vấn đề về điều phối thống nhất, giám sát các hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ TNN và phòng, chống tác hại do nước gây ra trên các lưu vực sông liên tỉnh, nội tỉnh cũng được phân cấp cụ thể cho Bộ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Còn những vấn đề về tổ chức và hoạt động của tổ chức lưu vực sông, cơ quan quản lý tài nguyên nước sẽ do Chính phủ quy định cụ thể trên cơ sở trách nhiệm quản lý đã được Quốc hội giao trong Luật.

PV. Trân trọng cám ơn Cục trưởng!

 

 

 

(Theo Monre.gov.vn)