Đường bờ biển 3.260 km của Việt Nam và mạng lưới sông rộng lớn đã mang lại cho đất nước một lợi thế kinh tế và công nghiệp. Tuy nhiên, việc khai thác và gây ô nhiễm môi trường của các con sông đã hạn chế rất nhiều người dân tiếp cận với nước uống sạch. Mặc dù đã có những nỗ lực nhằm cải thiện chất lượng nước ở Việt Nam và hạn chế việc thải bỏ không hợp lý chất thải của nhà máy, nước ô nhiễm vẫn gây ra tới 80% số bệnh trên toàn quốc .
Việt Nam có tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em cao nhất ở Đông Nam Á và 44% trẻ em Việt Nam mắc bệnh giun sán, giun móc giun hoặc giun tròn. Other common bệnh liên quan đến nước ở Việt Nam bao gồm viêm gan A, viêm gan E và Sốt thương hàn, tất cả đều được phổ biến nhất lây lan bởi ô nhiễm phân của nước uống.
Ô nhiễm nặng nề nhất ảnh hưởng đến những người sống ở miền Trung và miền Nam Việt Nam, nơi phần lớn các tuyến đường thủy được sử dụng cho nông nghiệp và điện. Mặc dù chất lượng nước ở các sông thượng nguồn của Việt Nam như Sông Hồng vẫn có thể chấp nhận được, nhưng những người sống ở hạ lưu hoặc ở các đô thị có nguy cơ mắc bệnh nước cao hơn.
Chất thải công nghiệp chưa được xử lý là nguyên nhân chính của chất lượng nước kém ở Việt Nam, vì năm mươi khu công nghiệp thải ra 105 triệu lít nước thải chưa được xử lý vào Sài Gòn hàng ngày. Các tổ chức tài nguyên nước quốc tế khuyên hạn chế khai thác dòng sông đến 30%, tuy nhiên, theo một báo cáo của tạp chí điện tử Voice of Vietnam, tỉnh Ninh Thuận đã khai thác được tới 80%. Điều này đã làm suy thoái các lưu vực sông Hồng, sông Thái Bình và sông Đồng Nai.
Các nhà máy thủy điện đã được xây dựng trên tất cả 13 mạng lưới sông lớn, cũng như trên các con sông nhỏ. Các nhà máy điện đã cắt mạng lưới sông thành hồ chứa nước nhân tạo và làm hỏng lưu trữ nước của sông. Điều này không chỉ phá hoại rừng và nước, mà còn làm cho người dân sống ở hạ lưu từ những vùng này đặc biệt dễ bị ô nhiễm bởi thuốc trừ sâu, phân bón, nước thải nhà máy, trang trại cá và nước thải.
Việt Nam đang phát triển cơ sở hạ tầng thủy điện để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về năng lượng. Mặc dù khung pháp lý và hành chính hiện tại về kiểm soát ô nhiễm là rất đáng kể, vấn đề là, theo ông Nguyễn Thị Kim Oanh, giáo sư tại Học viện Công nghệ Châu Á Thái Lan, là thực thi pháp luật. “Chúng tôi cần phải có những trừng phạt mạnh mẽ”, Oanh nói, đặc biệt là với các nhà máy điện lớn hơn. Ông cũng nói rằng mọi người cần phải nhận thức được vấn đề này để họ không tự đóng góp vào việc gây ô nhiễm.
Một số vấn đề lớn nhất liên quan đến kiểm soát ô nhiễm là tiền phạt thấp, các tiêu chí mơ hồ để xác định các bên gây ô nhiễm, năng lực giám sát thấp, ít có nguyện vọng thực thi các quy định và không đủ ngân sách. Tuy nhiên, luật pháp được thông qua trong thập kỷ qua đã đưa ra các quy định về các biện pháp trừng phạt nghiêm khắc hơn đối với những người gây ô nhiễm, như Luật sửa đổi năm 2005 về Bảo vệ Môi trường.
Kinh phí kiểm soát ô nhiễm cũng tăng lên trong 10 năm qua ở cả cấp trung ương và cấp tỉnh. Ví dụ, Quỹ Tái chế Rác thải TP.HCM hướng tới các công ty quản lý chất thải, trong khi Quỹ Bảo vệ Môi trường Việt Nam kiểm soát ô nhiễm ở các khu đô thị, làng nghề và bệnh viện.
Tài trợ linh hoạt, kiểm toán hiệu quả và kiến thức để biết đối tượng gây ô nhiễm là gì nên giảm chất thải đi vào sông Việt Nam . Lợi ích của những thay đổi này sẽ bảo vệ các thế hệ tương lai khỏi bệnh tật nghiêm trọng và cuối cùng là chuẩn bị cho đất nước phát triển kinh tế bền vững hơn.