Ngày 7/9/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 1537/QĐ-TTg về việc ban hành Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Vu Gia – Thu Bồn. Ban hành kèm theo Quyết định này Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Vu Gia – Thu Bồn bao gồm các hồ: A Vương, Đắk Mi 4, Sông Tranh 2, Sông Bung 4, Sông Bung 4A và Sông Bung 5.
Theo Quyết định 1537/QĐ-TTg, hàng năm các hồ A Vương, Đắk Mi 4, Sông Tranh 2, Sông Bung 4, Sông Bung 4A và Sông Bung 5 trên lưu vực sông Vu Gia – Thu Bồn phải vận hành theo nguyên tắc thứ tự ưu tiên như sau: Trong mùa lũ, đảm bảo an toàn công trình; góp phần giảm lũ cho hạ du; và đảm bảo hiệu quả phát điện. Trong mùa cạn, đảm bảo an toàn công trình; đảm bảo dòng chảy tối thiểu trên sông và nhu cầu sử dụng nước tối thiểu ở hạ du; và đảm bảo hiệu quả phát điện.
Mùa lũ trong quy trình được quy định từ ngày 01/9 đến ngày 15/12 hàng năm. Và mùa cạn được quy định từ ngày 16/12 đến ngày 31/8 năm sau.
Quyết định nêu rõ, việc vận hành các công trình xả của các hồ chứa phải được thực hiện theo đúng quy trình vận hành công trình xả đã được ban hành nhằm đảm bảo ổn định cho hệ thống công trình đầu mối. Đồng thời, trong thời gian làm nhiệm vụ cấp nước cho mùa cạn, các đập dâng An Trạch, Thanh Quýt, Bầu Nít và Hà Thanh phải thực hiện đóng kín, trừ trường hợp có lũ tiểu mãn.
Nguyên tắc vận hành các hồ giảm lũ cho hạ du
Về nguyên tắc vận hành các hồ giảm lũ cho hạ du, Quyết định nêu rõ, không cho phép sử dụng phần dung tích hồ từ cao trình mực nước dâng bình thường đến cao trình mực nước lũ kiểm tra để điều tiết lũ khi các cửa van của công trình xả chưa ở trạng thái mở hoàn toàn, trừ trường hợp đặc biệt theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ hoặc Trưởng Ban chỉ đạo trung ương về phòng, chống thiên tai.
Khi vận hành giảm lũ cho hạ du phải tuân thủ theo quy định về trình tự, phương thức đóng, mở cửa van các công trình xả đã được cấp có thẩm quyền ban hành, bảo đảm không gây lũ nhân tạo đột ngột, bất thường đe dọa trực tiếp đến tính mạng và tài sản của nhân dân khu vực ven sông ở dưới hạ du hồ chứa.
Trong thời kỳ mùa lũ, khi chưa tham gia vận hành giảm lũ cho hạ du, mực nước các hồ chứa không được vượt quá mực nước cao nhất trước lũ đối với hồ A Vương 376 m, hồ Đắk Mi 4: 255 m, hồ Sông Tranh 2: 172m, hồ Sông Bung 4: 217,5 m, trừ trường hợp quy định.
Trong quá trình vận hành phải thường xuyên theo dõi, cập nhật thông tin về tình hình thời tiết, mưa, lũ; mực nước tại các trạm thủy văn, mực nước, lưu lượng đến hồ và các bản tin dự báo tiếp theo để vận hành, điều tiết cho phù hợp với tình hình thực tế.
Khi kết thúc quá trình giảm lũ cho hạ du phải đưa dần mực nước hồ về cao trình mực nước trước lũ nêu trên, trừ trường hợp quy định.
Bên cạnh đó, để vận hành bảo đảm an toàn công trình, Quyết định nêu rõ, khi mực nước hồ đạt đến mực nước dâng bình thường, mà lũ đến hồ còn tiếp tục tăng và có khả năng ảnh hưởng đến an toàn của công trình, thực hiện chế độ vận hành đảm bảo an toàn công trình theo Quy trình vận hành của hồ đã được cấp có thẩm quyền ban hành.
Bên cạnh đó, khi không tham gia vận hành giảm lũ cho hạ du, hồ Đắk Mi 4 phải xả nước liên tục về hạ lưu sông Vu Gia không nhỏ hơn 3 m3/s, trường hợp có yêu cầu xả lớn hơn của Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng thì hồ Đắk Mi 4 phải xả nước về hạ lưu sông Vu Gia theo yêu cầu nhưng không vượt quá 12,5 m3/s.
Từ ngày 15 tháng 11 đến ngày 15 tháng 12 hàng năm, căn cứ nhận định xu thế diễn biến thời tiết, thủy văn của Trung tâm Khí tượng Thủy văn quốc gia, nếu không xuất hiện hình thế thời tiết có khả năng gây mưa lũ trên lưu vực, chủ hồ được phép chủ động tích nước để đưa dần mực nước hồ về mực nước dâng bình thường.
Nguyên tắc vận hành các hồ trong mùa cạn
Quyết định quy định, nguyên tắc vận hành các hồ chứa trong mùa cạn phải đảm bảo các nguyên tắc sau đây: Vận hành hồ theo các thời kỳ sử dụng nước gia tăng, sử dụng nước bình thường và theo thời đoạn 10 ngày; Vận hành các hồ theo giá trị mực nước tại các Trạm thủy văn Ái Nghĩa và Giao Thủy; Trong thời gian vận hành các hồ chứa phải căn cứ vào mực nước hồ hiện tại và dự báo dòng chảy đến hồ trung bình 10 ngày tới để điều chỉnh việc vận hành sao cho mực nước hồ tại các thời điểm tương ứng không nhỏ hơn giá trị quy định tại Phụ lục III của Quy trình này.
Theo đó, thời kỳ sử dụng nước gia tăng trong mùa cạn được tính từ ngày 11 tháng 5 đến ngày 10 tháng 6; và thời kỳ sử dụng nước bình thường được tính từ ngày 16 tháng 12 đến ngày 10 tháng 5 năm sau và từ ngày 11 tháng 6 đến ngày 31 tháng 8.
Quy trình cũng quy định cụ thể về chế độ vận hành các hồ trong thời kỳ sử dụng nước gia tăng, thời ký sử dụng nước bình thường, và vận hành bảo đảm mực nước hồ trong mùa cạn.
Bên cạnh đó, Quyết định cũng quy định cụ thể về trách nhiệm của các chủ hồ, chính quyền địa phương và một số Bộ, ngành liên quan trong việc vận hành và xử lý một số tình huống cụ thể. Đặc biệt là quy định giám sát vận hành hồ.
Quy trình quy định Giám đốc đơn vị quản lý, vận hành các hồ: A Vương, Đắk Mi 4, Sông Tranh 2, Sông Bung 4, Sông Bung 4A và Sông Bung 5 phải lắp đặt camera giám sát việc xả nước và truyền tín hiệu hình ảnh về Ủy ban nhân dân và Ban Chỉ huy phòng, chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công Thương, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Cục Quản lý tài nguyên nước và Cục Điều tiết điện lực; Lập kế hoạch xây dựng, lắp đặt hệ thống giám sát tự động, trực tuyến việc vận hành xả nước của các hồ chứa theo quy định.
Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký. Bãi bỏ Quyết định số 909/QĐ-TTg ngày 16/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Vu Gia – Thu Bồn trong mùa lũ hàng năm.
(Theo monre.gov.vn)