Lưu vực sông Đồng Nai mặn lấn sâu vào thêm 10km. Đồng bằng sông Hồng – Thái Bình lũ thượng nguồn gia tăng lên 20% làm hệ thống hồ chứa thượng nguồn bị đe dọa. Đặc biệt, tranh chấp gay gắt về nước sẽ diễn ra tại khu vực sông Thu Bồn, sông Ba do hệ thống thủy điện vừa và nhỏ dày đặc.
Ngay sau khi công bố kết quả kịch bản nước biển dâng, viện Khoa học Khí tượng thủy văn và Môi trường (bộ Tài nguyên và Môi trường) đã công bố Kết quả đánh giá tác động của biến đổi khí hậu lên tài nguyên nước và các biện pháp thích ứng.
ĐBSCL: Thêm 9 thành phố bị ngập
Theo TS Hoàng Minh Tuyển, phó giám đốc Dự án “Tác động của biến đổi khí hậu lên tài nguyên nước và các biện pháp thích ứng”, Việt Nam có tổng lượng dòng chảy năm vào khoảng 847 km3, lượng nước chảy từ ngoài lãnh thổ vào là 507 (chiếm đến 60%), phân bố chủ yếu trên hai hệ thống sông lớn là sông Hồng và sông Cửu Long. Tuy nhiên, nguồn tài nguyên này hiện phân bố không đồng đều, đặc biệt, trong điều kiện BĐKH lượng mưa ngày càng giảm đi rõ rệt trong mùa khô, hạn hán, lũ lụt, kèm theo sự bùng nổ dân số khiến nguy cơ thiếu nước ngày càng trở lên gay gắt. Đặc biệt, tuy lượng mưa toàn năm có tăng nhưng lượng nước tổn thất do bốc thoát hơi trên lưu vực tăng nhiều do nhiệt độ tăng, dẫn đến lượng dòng chảy không tăng mạnh, thậm chí khu vực miền Trung dòng chảy năm giảm.
Kết quả đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến tài nguyên nước tại 7 lưu vực sông: sông Hồng, Thái Bình, Cả, Thu Bồn, Ba, Đồng Nai và ĐBSCL cho thấy, tác động mạnh mẽ nhất sẽ xảy ra ở ĐBSCL và đồng bằng sông Hồng – Thái Bình. ĐBSCL diện tích đất bị ảnh hưởng mặn chiếm tới 2.500.000ha vào năm 2050. Lưu vực sông Đồng Nai, dòng chảy giảm cùng với tác động của nước biển dâng sẽ khiến mặn lấn sâu vào thêm 10km, khoảng 300.000ha ở hạ lưu bị ảnh hưởng ngập lụt do thượng nguồn. Điều này tác động rất lớn tới sự phát triển kinh tế – xã hội, nhất là đối với TP Hồ Chí Minh.
Đặc biệt, hàng năm vào mùa lũ sẽ gây ngập lụt các vùng Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên, vùng kẹp giữa 2 sông Tiền và sông Hậu nghiêm trọng hơn. Ngoài các thành phố, thị xã đã bị ngập hiện nay như Châu Đốc, Long Xuyên, Cao Lãnh sẽ có thêm Sa Đéc, Vĩnh Long, Tân An, Mỹ Tho, Cần Thơ, Vị Thanh, Sóc Trăng, Rạch Giá và Hà Tiên bị ngập trên 1m, trong đó nghiêm trọng nhất là Cần Thơ và Vĩnh Long. Nước biển dâng sẽ làm cho tiêu thoát nước các thành phố, thị xã Mỹ Tho, Bến Tre, Trà Vinh, Bạc Liêu và Cà Mau khó khăn hơn.
“Nguy cơ” hồ chứa, thủy điện
Vẫn theo TS Tuyển, đối với đồng bằng sông Hồng – Thái Bình đến năm 2100 mặn xâm nhập sâu thêm vào đất liền từ 3-9km. Lũ thượng nguồn gia tăng, lưu lượng đỉnh lũ tăng từ 11-25% vào năm 2100 kết hợp với nước biển dâng sẽ dẫn đến mực nước dọc sông dâng cao hơn, uy hiếp đến an toàn hệ thống hồ chứa thượng nguồn và gần 3.000km của hệ thống đê bảo vệ cho đồng bằng.
Sông Thu Bồn, sông Ba chịu sức ép của việc khai thác, sử dụng nước khá cao, hệ thống thủy điện vừa và nhỏ dày đặc theo kết quả tính toán trong tương lại sẽ diễn ra tranh chấp về nước gay gắt. Bên cạnh đó, lũ sẽ lớn hơn dẫn đến diện tích ngập lụt gia tăng từ 4% năm 2050 đến 9% năm 2100. Trong mùa cạn, hạ lưu thiếu nước, xâm nhập mặn sẽ đe dọa trực tiếp vùng đồng bằng với độ xâm nhập khoảng 3km trên sông Ba và có thể lên tới 8km tại một số nhánh sông thuộc hệ thống sông Thu Bồn trong năm 2100.
Cũng theo phân tích của các nhà khoa học, dưới tác động của biến đổi khí hậu khiến dòng chảy các sông thay đổi về lâu dài sẽ ảnh hưởng tới sản lượng điện của các nhà máy thủy điện. Ngoại trừ lưu vực sông Hồng – Thái Bình và sông Cả, các lưu vực còn lại, điện lượng trung bình hàng năm có xu hướng giảm dần khoảng 3% vào năm 2050 và 6% vào năm 2100.
Đặc biệt, nhu cầu nước tưới cho nông nghiệp cũng là vấn đề cấp thiết khi nhiệt độ tăng lên, bốc thoát hơi nước nhiều, lượng mưa trong mùa khô giảm. Theo tính toán, tại Đồng Nai nhu cầu nước tưới sẽ là nhiều nhất, lên đến 50% vào cuối thế kỷ 21.
TS Hoàng Minh Tuyển cho rằng, các địa phương ở các lưu vực sông cần chung tay để có ngay những biện pháp thích ứng, tăng cường hợp tác với các nước bạn trong việc quản lý tài nguyên nước.
Đối với sông Hồng – Thái Bình cần tiếp tục phát triển các hồ chứa đa mục tiêu, nâng cao hiệu quả của hệ thống các hồ Sơn La, Hòa Bình, Tuyên Quang, Thác Bà bằng việc vận hành tối ưu. Cần xây dựng các đập ngăn mặn ở cửa sông Hóa, Đò Hàn, Trà Lý… Khôi phục rừng đặc biệt khu vực Tây Bắc để giữ đất, giữ nước, giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Sông Cả cần thiết lập quy trình vận hành liên hồ chứa. Trên lưu vực sông Thu Bồn cần phải nâng cấp, xây dựng các nhà máy cấp nước sinh hoạt, công nghiệp ở đô thị. Đồng thời phải tiến hành xây dựng các nhà tránh lũ cho dân trong các khu vực bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Tại lưu vực sông Đồng Nai, cần phải xây dựng một cơ chế chia sẻ nguồn nước. Việc xây dựng các tuyến đê và cống ngăn mặn cần kết hợp với việc chống ô nhiễm nguồn nước từ các nguồn thải công nghiệp và sinh hoạt. Phát triển các cống tưới tiêu, trạm bơm ở thượng nguồn Vàm Cỏ Đông như trạm bơm Gốc Ổi, Hòa Hồi, Bến Sỏi, Trà Cú, Bến Đinh. Riêng đối với ĐBSCL, cần từng bước xây dựng các tuyến đê biển dọc bờ biển Đông và biển Tây ngăn chặn sự xâm nhập nước biển, đưa vào cơ cấu cây trồng, vật nuôi không có nhu cầu nước cao, thực hiện công nghệ tưới tiết kiệm, có khả năng thích ứng với nước lợ và nước mặn.
(Theo sgtt)