Báo cáo diễn biến động thái nước dưới đất 6 tháng đầu năm 2007

A.   Đồng bằng Bắc Bộ


– Mực nước bình quân (tính bằng độ cao tuyệt đối) tầng chứa nước Pleistocen trung-thượng (qp) 6 tháng đầu năm thấp hơn giá trị cùng kỳ năm trước và trung bình nhiều năm.  

Tại các vùng khai thác mạnh, mực nước dưới đất tầng qp tiếp tục giảm dần như Hà Nôi, Nam Định, Hải Phòng.

          Vùng Hà Nội:  mực nước sâu  nhất cách mặt đất tại lỗ khoan quan trắc P.41a ở trung tâm bãi giếng Hạ Đình là 34,54m,  Dự báo mực nước tháng 6 năm 2007 là 34,61m.

           Vùng Hải Hậu-Nam Định:  Mực nước sâu nhất cách mặt đất tại công trình quan trắc Q.109a  là 8,97m, thấp hơn cùng kỳ năm trước 0,28m. Dự báo 6 tháng cuối năm mực nước có thể hạ thấp xuống độ sâu 9,07m.

          Vùng Kiến An – Hải Phòng : Mực nước sâu nhất cách mặt đất tại công trình quan trắc Q.167a  là 10,28m, thấp hơn cùng kỳ năm trước 0,22m. Dự báo 6 tháng cuối năm mực nước có thể hạ thấp xuống độ sâu 10,58m cách mặt đất.


          Thành phần hoá học nước dưới đất:

+ Tầng chứa nước qh nằm trên cùng, tiếp xúc với khí quyển. Nước nhạt thường phân bố ở các dải ven sông, nước mặn thường phân bố ở khu vực ven biển. Có 8/32 mẫu có độ tổng khoáng hoá vượt quá chỉ tiêu cho phép cho ăn uống và sinh hoạt.  Đây là tầng chứa nước trên cùng, chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố đặc biệt là dân sinh, kết quả phân tích amoni cho thấy có 16/21 mẫu có hàm lượng vượt quá tiêu chuẩn cho phép (TCCP ).

+ Tầng chứa nước  qp là tầng chứa nước chính ở đồng bằng Bắc Bộ, nằm bên dưới tầng chứa nước qh. Độ tổng khoáng hoá nước dưới đất (TDS) tổng hợp cho tầng qp mùa khô năm 2007 là 654mg/l giảm 336mg/l so với giá trị cùng kỳ năm trước. Nguyên tố Mn có tỷ lệ mẫu vượt chỉ tiêu cho phép cao 9/25 mẫu  theo tiêu chuẩn TCVN-5944-1995 (Tiêu chuẩn ô nhiễm nước ngầm của Bộ Khoa Học và Công Nghệ năm 1995); hàm lượng cao nhất của các nguyên tố Mn là 1,85mg/l (Q.127a – Hưng Yên). Nguyên tố As có 2/25 mẫu vượt chỉ tiêu cho phép hàm lượng cao nhất là  0,608mg/l (Q.58a – Hoài Đức-Hà Tây ). Có 11/13 mẫu nghiên cứu có hàm lượng NH4+ vượt quá chỉ tiêu cho phép. Hàm lượng cao nhất là 97,5mg/l (Q.69a – Hà Đông – Hà Tây). Các vùng có hàm lượng amoni và asen cao là Hà Nội, Hà Tây, Hà Nam.

B.         Đồng bằng Nam Bộ


Mực nước bình quân (tính bằng độ cao tuyệt đối) các tầng chứa nước Pleistocen thượng (qp3), Pleistocen trung – thượng (qp2-3), Pleistocen hạ (qp1), Pliocen trung (n22), Pliocen hạ (n21), Miocen thượng (n13) 6 tháng đầu năm được tổng hợp cho thấy có xu hướng suy giảm so với giá trị cùng kỳ năm trước và giá trị trung bình nhiều năm (1995-2007). 

– Mực nước sâu nhất cách mặt đất tầng chứa nước Pliocen trung (n22) ở vùng Cà Mau tại công trình quan trắc Q17704T là 16,73m cách mặt đất. Dự báo 6 tháng cuối năm mực nước có thể hạ thấp xuống độ sâu 16,97m cách mặt đất.

          Mực nước sâu nhất cách mặt đất ở Bình Chánh – TP Hồ Chí Minh tại công trình quan trắc Q015030  là 28,36m cách mặt đất, thấp hơn cùng kỳ năm trước 2,02m.  Q015030 là công trình nằm trong vùng động thái khí tượng bị phá huỷ do khai thác, mực nước bị hạ thấp được hồi phục do được cung cấp tạo nên 2 chu kỳ dâng , hạ mực nước. Chu kỳ dâng mực nước xảy ra vào tháng 1-tháng 2.  Do tầng chứa nước ở sâu, nên sự hồi phục xảy ra chậm pha từ 1-3 tháng so với mùa mưa. Dự báo 6 tháng cuối năm độ sâu mực nước đạt khoảng 28,31m cách mặt đất.

Thành phần hoá học nước dưới đất: Độ tổng khoáng hoá nước dưới đất tổng hợp cho các tầng chứa nước có xu hướng thay đổi so với năm 2006 và so với trung bình nhiều năm (1995-2007).

Hầu hết yếu tố vi lượng nước dưới đất trong các tầng chứa nước đều nằm dưới chỉ tiêu cho phép trừ Mangan và Asen. Trong đó, tầng qp­3 có 3/6 mẫu có hàm lượng mangan vượt quá TCCP, hàm lượng cao nhất đạt 2,39mg/l (công trình Q031020 – Thanh Bình – Đồng Tháp); 1/6 mẫu có hàm lượng Asen vượt quá TCCP đạt 0,057mg/l ( công trình Q409020 – TX Sóc Trăng – Sóc Trăng); Kết quả phân tích mẫu nhiễm bẩn cho thấy có 2/10 mẫu có hàm lượng amoni vượt quá TCCP, hàm lượng cao nhất đạt 5,99mg/l (công trình Q031020 – Thanh Bình – Đồng Tháp). Tầng qp2-3 có 1/8 mẫu có hàm lượng mangan vượt quá TCCP, có hàm lượng 0,55mg/l (công trình Q598020 – TX Sóc Trăng – Sóc Trăng). Tầng qp­1 có 2/8 mẫu có hàm lượng mangan vượt quá TCCP, hàm lượng cao nhất đạt 1,56mg/l (công trình Q02204T – Thạnh Hoá – Long An); có 1/8 mẫu có hàm lượng Crôm, Đồng và Niken vượt quá TCCP, hàm lượng cao nhất đạt lần lượt là 0,716mg/l; 0,4mg/l; 0,113mg/l (công trình Q220040 – Tân Biên – Tây Ninh). Tầng n22 có 3/9 mẫu có hàm lượng mangan vượt quá TCCP, hàm lượng cao nhất đạt 38,7mg/l (công trình Q17704T – TX Cà Mau – Cà Mau).

C.         Vùng Tây Nguyên


Mực nước bình quân (tính bằng độ cao tuyệt đối) vùng Tây Nguyên được tổng hợp tính toán cho thấy giá trị trung bình tháng trong sáu tháng đầu năm 2007 cao hơn so với giá trị trung bình nhiều năm và thấp hơn so với cùng kỳ năm trước, có lẽ do biến đổi khí hậu, năm khô hạn, năm mưa nhiều làm biến đổi mực nước.

            – Tại các vùng khai thác với lưu lượng lớn như Buôn Ma Thuột, Kon Tum,… mực nước có xu hướng suy giảm. Mực nước sâu nhất cách mặt đất ở vùng Kon Tum tại công trình quan trắc C5o (hìình 5) là 33,19m. Dự báo 6 tháng cuối năm mực nước có thể hạ thấp xuống độ sâu 32,99m cách mặt đất


Thành phần hoá học nước dưới đất: Độ tổng khoáng hoá trung bình mùa khô năm 2007 là 150mg/l, tăng 48mg/l so với trung bình cùng kỳ năm trước và so với trung bình nhiều năm.

Các yếu tố vi lượng trong nước dưới đất đều nằm trong giới hạn cho phép trừ Thuỷ ngân và Mangan. Hàm lượng Mangan cao nhất đạt 0,59mg/l ( công trình LK18T – TT. An Khê – Gia Lai), hàm lượng thuỷ ngân cao nhất đạt 0,003mg/l ( 32S – TX Kon Tum – Kon Tum).