MêKông và cuộc chiến nguồn nước

tt48Hàng loạt công trình thủy điện lớn đang được xây dựng trên dòng chính Mekong là thách thức đối với hợp tác giữa các nước trong lưu vực. Vấn đề sông Mekong không còn đơn giản là câu chuyện nước
Mêkông là con sông  lớn nhất  ở  Đông  Nam Á,  bắt  nguồn  từ  cao nguyên  Tây  Tạng,  chảy  qua lãnh  thổ  của  6  nước  là  Trung Quốc,  Myanma,  Lào,  Thái  Lan, Campuchia  và  Việt  Nam.  Sông Mêkông có chiều dài dòng chính là  4.880  km,  diện  tích  lưu  vực 795.000 km2 và tổng lượng dòng chảy hàng năm 475 tỉ m3. So với các  lưu  vực  sông  trên  thế  giới, Mêkông đứng thứ 8 về tổng lượng dòng chảy, thứ 12 về chiều dài và thứ 21 về diện tích lưu vực.

Mêkông  là  quê  hương  sinh sống của  trên 80  triệu người với trên 100 dân  tộc khác nhau,  làm thành một trong những vùng đa dạng văn hoá nhất  trên  thế giới. Lưu vực Mêkông là  nơi sản xuất một  lượng  lúa gạo đủ nuôi sống 300  triệu  người  và  cũng  là một trong những  vùng  có  sản  lượng cá  nước  ngọt  lớn  nhất  trên  thế giới. Trong lưu vực có trên 1.300 loài cá sinh sống và chế độ dòng chảy dao động theo mùa đã cung cấp môi  trường  và  thức  ăn  cho các  loài  động  vật  thuỷ  sinh  của lưu vực.

Ủy  hội  Sông Mêkông  (MRC) được  thành  lập  năm  1995  theo một  điều  khoản  của  Hiệp  định Phát  triển  Bền  vững  Lưu  vực sông Mêkông (Hiệp định Mêkông 1995)  được 4 quốc gia hạ lưu vực (Lào,  Thái  Lan,  Campuchia  và Việt Nam) ký kết ngày 5/4/1995. Việc  ký  Hiệp  định  Mêkông 1995  khẳng  định  thiện  chí  của các quốc gia hạ  lưu vực  tiếp  tục duy trì, phát triển cơ chế hợp tác Mêkông  đã  hình  thành  từ  1957 với  mong  muốn  hợp  tác  phát triển bền vững và gìn giữ nguồn tài nguyên thiên  nhiên  chung. Hợp  tác Mêkông  trải  qua  nhiều giai  đoạn  thăng trầm  cùng  với những biến động chính  trị  trong khu vực.

Cơ  hội  lớn  nhất  cho  hợp  tác Mêkông  là  sự  công  nhận  và  hỗ trợ  lớn  lao  từ cộng đồng quốc  tế dành  cho  những  nỗ  lực  hợp  tác bảo  vệ  nguồn  tài  nguyên  thiên nhiên và môi trường của vùng hạ lưu  vực  trong  hơn  50  năm  qua. Có  thể  nói  sự  hỗ  trợ  to  lớn  của cộng đồng quốc tế cùng với sự nỗ lực  của  các  quốc  gia  thành  viên đã bảo đảm duy trì và phát triển cơ chế hợp tác quan trọng này.

Tuy  nhiên  hợp  tác  Mêkông luôn đối mặt với các  thách  thức. Trung  Quốc  và Myanma  là  hai quốc  gia  có một  phần  lãnh  thổ nằm  ở  thượng  nguồn  lưu  vực, đóng  góp  lớn  vào  tổng  lượng dòng chảy  sông Mêkông  nhưng không  tham  gia  cơ  chế  hợp  tác Mêkông.

Đặc biệt là Trung Quốc (đóng góp  18%  tổng  lượng  dòng  chảy lưu  vực)  đã  và  đang  phát  triển mạnh mẽ các công trình hồ chứa thủy  điện  lớn  trên  dòng  chính Mêkông. Tác động có thể có của các công trình thủy điện này đang là mối quan ngại cho các quốc gia hạ lưu vực.

Bên  cạnh  đó,  sự  phát  triển mạnh  mẽ  về  kinh  tế  và  sự  gia tăng dân số nhanh chóng của các các  quốc  gia  thành  viên  của Ủy hội Sông Mêkông đã và đang tạo sức ép ngày  càng  lớn  lên nguồn tài nguyên nước và các tài nguyên liên  quan  của  chính  hạ  lưu  vực Mêkông và điều này cũng tạo ra thách thức ngày càng lớn đối với hợp tác Mêkông.

Áp lực lên tài nguyên lớn nhất đó là do nhu cầu năng lượng gia tăng nhanh chóng. Các quốc gia có nguồn  tiềm năng  thủy điện ở hạ  lưu vực đã nhìn nhận đây  là nguồn  lợi không  thể không khai thác,  hàng  loạt  các  công  trình thủy điện trên dòng nhánh đã và được xây dựng và nhiều bậc thang thủy  điện  lớn  trên  dòng  chính sông ở hạ lưu Mêkông đang tiến hành những nghiên cứu và khảo sát để chuẩn bị xây dựng.

Theo  những  nghiên  cứu đánh giá của chính Ủy hội Sông Mêkông,  ngoài  những  lợi  ích kinh  tế  do  các  công  trình  thủy điện mang lại, ở các mức độ khác nhau,  các  công  trình  thủy  điện đơn mục tiêu này đều có tác động tiêu cực đến hạ lưu như làm thay đổi phân  bố  dòng  chảy,  giảm đáng kể  lượng phù  sa xuống hạ lưu, giảm lượng dinh dưỡng cho cá,  tác động đến  hình  thái  sông tăng  sói  lở  bờ  và  cản  trở  giao thông thủy.

Những biện pháp giảm  thiểu các  tác  động  tiêu  cực  cũng  đã được các quốc gia có công trình và Ủy hội Sông Mêkông nghiên cứu đề xuất, tuy nhiên một khi hàng loạt các công trình thủy điện lớn được  xây dựng  trên dòng  chính Mêkông,  thách  thức đối với hợp tác Mêkông sẽ gia tăng.

Đồng  thời  với  thủy  điện,  áp lực  sử  dụng  nước  trong  nông nghiệp và các ngành kinh  tế đòi hỏi  cần  có  lượng  nước  bổ  sung từ  ngoài  lưu  vực,  nguồn  nước sông  Mêkông  cũng  được  nhắm đến như là giải pháp cho vấn đề bổ  sung nước. Các đề án, dự án chuyển  nước  ngoài  lưu  vực  đã có thời điểm được nêu trên công luận.

Những giải pháp giảm  thiểu, cơ chế đánh đổi v..v…,  tất cả vẫn đang được đặt ra trong và ngoài khuôn khổ hợp tác Mêkông.

Thách  thức  đối  với  lưu  vực và đối với hợp tác Mêkông sẽ gia tăng hơn rất nhiều trong điều kiện có biến đổi khí hậu và mực nước biển  dâng. Với  đồng  bằng  sông Cửu Long Việt Nam, nhiều nhà khoa học đã lên tiếng cảnh báo sẽ chịu  tác  động  kép  từ  cả  thượng lưu xuống và từ biển vào.

Sự hy vọng vào cơ chế hợp tác Mêkông  có  thể  “hóa  giải”  được các thách thức trên. Hợp tác Mêkông đã đánh dấu một  mốc  quan  trọng,  đúng  15 năm sau ngày ký kết Hiệp định Mêkông  1995,  ngày  5/4/2010, Hội  nghị  Thượng  đỉnh Mêkông lần đầu tiên được tổ chức tại Hua Hin (Thái Lan) với cam kết chính trị mạnh me:

“Chúng tôi, các nhà  lãnh đạo của  bốn  Chính  phủ  tuyên  bố rằng, dựa  trên những  thành  tựu của 15 năm  thực hiện Hiệp định Mêkông,  việc  hợp  tác  hơn  nữa trong những năm tới giữa Chính phủ  các  nước  thành  viên  là  rất cần  thiết  nhằm  tối  ưu  hoá  việc sử dụng đa mục  tiêu  tài nguyên nước và vì  lợi  ích  chung  của  tất cả  các  nước  ven  sông,  để  tránh bất kỳ tác động bất lợi nào do các hiện tượng tự nhiên và con người gây  ra, và bảo vệ giá  trị  lớn  lao của  các hệ  sinh  thái  tự nhiên và cân  bằng  sinh  thái”.  (Tuyên  bố chung Hua Hin, 5/4//2010).

Phát  triển  là không dừng  lại, nhưng phát triển bền vững là con đường tồn tại lâu dài. Với các con sông quốc  tế nói  chung và  sông Mêkông  nói  riêng,  tài  nguyên nước và  là tài sản chung của các quốc gia cùng chia sẻ, lợi ích của tất cả các quốc gia cần được  tôn trọng. Tuy nhiên  nguyên tắc chia sẻ công bằng và hợp lý nguồn tài nguyên nước là nguyên tắc được luật pháp quốc tế công nhận.

Với  lịch  sử  hợp  tác  lâu  dài với sự hỗ trợ to lớn từ cộng đồng quốc  tế,  đứng  trước  thách  thức mới, hy vọng các quốc gia hạ lưu vực Mêkông  sẽ  tìm  ra đường đi để  tiếp  tục bảo vệ và phát  triển nguồn nước sông Mêkông vì các thế hệ hôm nay và mai sau./.

(Theo TS. Đào Trọng Tứ – Vietnamnet)