Mạng thủy văn phát triển trên địa bàn tỉnh Gia Lai chủ yếu là của lưu vực sông Sông Ba, là một trong những hệ thống sông lớn thuộc Tây Nguyên và ven biển miền Trung có diện tích lưu vực là 13.417 km2
Lưu vực sông Ba có thể chia thành các kiểu địa hình: ở trung và thượng lưu, chủ yếu là núi và cao nguyên; hạ lưu có đồi núi thấp, thung lũng và đồng bằng bồi tụ ven biển. Lưu vực sông Ba có nhiều loại đất khác nhau, thích hợp cho nhiều loại cây trồng sinh trưởng và phát triển.
Bản đồ lưu vực sông Ba
Vùng lưu vực sông Ba, dưới góc độ địa sinh vật được xem là vùng phân bố tự nhiên có độ đa dạng sinh học cao ở nước ta. Do điều kiện địa hình hiểm trở, đặc biệt có dãy Ngọc Linh với độ cao trên 2.000 m là đầu nguồn của các hệ thống sông lớn ở vùng Trung Bộ như sông Vu Gia – Thu Bồn, sông Kone và sông Ba. Cùng với điều kiện địa hình, tính chất thổ nhưỡng và điều kiện khí hậu là điều kiện thuận lợi cho thảm thực vật rừng ở đây phát triển phong phú. Sông Ba có 5 sông nhánh có diện tích lưu vực lớn hơn 500 km2, bao gồm sông IaPiHao (552 km2, nhập lưu vào bờ phải), sông Đắc Pô Kô (762 km2), nhập lưu vào bờ trái), IaYun (2.950 km2, nhập lưu vào bờ phải), Krông Hnăng (1.840 km2), nhập lưu vào bờ phải, sông Hinh (1040 km2, nhập lưu vào bờ phải). Trên các sông suối thượng lưu sông Ba thuộc Tây Trường sơn như thượng nguồn sông IaYun, thượng nguồn sông Krong Hnăng, lũ xảy ra trong các tháng VI đến tháng IX, nhưng do các sông nhánh nằm trên các loại địa hình khác nhau, diện tích lưu vực nhỏ nên lượng lũ sinh ra không lớn và không có tổ hợp bất lợi gây nên lũ lớn ở hạ du
Mạng thủy văn phát triển trên địa bàn tỉnh Kon Tum chủ yếu là của lưu vực sông Sê San. Sông Sê San là một trong 4 con sông lớn ở Tây Nguyên, là một trong các nhánh lớn của lưu vực hạ du sông Mê Kông.
Sơ đồ hệ thống lưu vực sông Sê San
Mạng lưới sông của lưu vực sông Sê San được hình thành bởi hệ thống sông suối tương đối phát triển với hai nhánh chính của nó là Đăk Bla và Krông Pôkô. Mật độ lưới sông trên lưu vực là 0,48 đến 0,55 km/km2.
Lưu vực Sê San với diện tích lưu vực 11.510 km2 , lượng mưa trung bình nhiều năm 2260mm, dòng chảy năm đạt 408 m3/s tương ứng với mô số dòng chảy đạt 35,6 l/s/km2, tổng lượng dòng chảy năm 12,9 tỷ m3.. Dòng chính Sê San được hợp lưu bởi 2 nhánh lớn là Đăk Bla và Prông Pôkô cùng các nhánh nhỏ khác. Nếu tính trên toàn lưu vực Sê San thì mùa lũ trên lưu vực kéo dài từ tháng VII đến XI và chiếm 75% tổng lượng nước của cả năm
Kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy mô dun dòng chảy năm trung bình nhiều năm (M0) của lưu vực sông Ba không lớn, đạt khoảng 24,2 l/s.km2 ở dưới mức trung bình của toàn quốc. Trong khi đó lưu vực sông Sê San có giá trị lớn hơn khá nhiều, đạt khoảng 35,6 l/s.km2 và tổng lượng dòng chảy năm là 12,9 tỷ m3.
Qua kết quả đánh giá cho thấy tiềm năng về thủy điện của 2 hệ thống sông Ba và Sê San là khá lớn. Chỉ riêng trên hệ thống sông Sê San đã có tới 6 bậc thủy điện lớn, với dung tích hữu ích các hồ chứa thủy điện lên tới 2.449 triệu m3.