Quy hoạch phân bổ tài nguyên nước lưu vực sông Hồng – Thái Bình với tầm nhìn dài hạn

Lưu vực sông (LVS) Hồng – Thái Bình nằm trên lãnh thổ 3 nước Trung Quốc,Việt Nam và Lào. Tổng diện tích tự nhiên của toàn LVS Hồng – Thái Bình khoảng 169.000 km2, trong đó phần lưu vực nằm ở Trung quốc là 81.200 km2 chiếm 48%, phần lưu vực nằm ở Lào là 1.100 km2 chiếm 0,7%; phần lưu vực nằm ở Việt Nam là 86.700 km2 chiếm 51,3%.

Tổng lượng dòng chảy trung bình năm của lưu vực sông Hồng-Thái Bình vào khoảng 131,4 tỷ m3, trong đó lượng nước sản sinh từ địa phận nước ngoài chảy vào Việt nam là 48,3 tỷ m3, lượng nước sản sinh trong lãnh thổ Việt Nam là 83,1 tỷ m3.

Trữ lượng động các tầng chứa nước thuộc LVS Hồng – Thái Bình khoảng 988 m3/s .

Bên cạnh đặc điểm phân bố nguồn nước không đều giữa mùa khô, mùa mưa, nguồn nước lưu vực sông Hồng – Thái Bình còn đang chịu tác động trực tiếp của biến đổi khí hậu. Đặc biệt vào mùa khô nguồn nước có xu hướng giảm, tình trạng cạn kiệt nguồn nước xảy ra trên diện rộng và tình hình lũ, lụt trong mùa mưa diễn biến phức tạp hơn. Ngoài ra việc khai thác, sử dụng nước ở các quốc gia nằm trên thượng nguồn lưu vực sông đang có tác động lớn đến nguồn nước chảy về Việt Nam gây nên tình trạng cạn kiệt nguồn nước vào mùa khô.

Cùng với diễn biến phức tạp của nguồn nước, tác động của biến đổi khí hậu và khai thác, sử dụng nước của các quốc gia nằm trên thượng nguồn lưu vực sông làm cho lượng nước mùa khô ngày càng có xu thế suy giảm. Ngoài ra, nhu cầu nước phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội ngày càng tăng (do sự gia tăng dân số, quá trình đô thị hóa, sản xuất công nghiệp, phát triển thủy điện ngày càng nhanh), các vấn đề tài nguyên nước trên lưu vực sông Hồng – Thái Bình ngày càng diễn biến phức tạp.

1. Lưu vực sông Hồng – Thái Bình có gần 50% diện tích ngoài lãnh thổ Việt Nam. Việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước ở phần thượng nguồn lưu vực sông sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ tới chế độ nguồn nước lưu vực sông Hồng – Thái Bình. Bên cạnh đó, những tác động do biến đổi khí hậu toàn cầu đến chế độ khí hậu của lưu vực sông Hồng – Thái Bình cũng gây ra những thách thức về tính chủ động trong các phương án khai thác, sử dụng và điều hòa nguồn nước trên lưu vực sông Hồng – Thái Bình.

2. Tình trạng thiếu nước trong mùa khô liên tục xảy ra ở vùng hạ du. Đặc biệt là trong những năm gần đây, mực nước tại một số vị trí quan trắc ở hạ du đã có thời điểm xuống tới mức thấp nhất trong lịch sử. Cạnh tranh trong sử dụng nước giữa các ngành, đặc biệt là giữa phát điện và sản xuất nông nghiệp trong mùa khô ngày càng tăng. Áp lực về dân số cộng với các mục tiêu tăng trưởng và những thay đổi mạnh về cơ cấu kinh tế, gia tăng phát triển các ngành công nghiệp – dịch vụ, sự hình thành các trung tâm dân cư, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng ở lưu vực sông Hồng – Thái Bình sẽ làm thay đổi mạnh mẽ cơ cấu trong nhu cầu khai thác, sử dụng nước, kể cả về chất lượng và số lượng. Nếu không phân bổ nguồn nước hợp lý, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các vùng, các tiểu lưu vực và các ngành dùng nước trên lưu vực sông thì việc khai thác, sử dụng nguồn nước sông Hồng – Thái Bình sẽ không bảo đảm hiệu quả tổng hợp về kinh tế – xã hội và môi trường.

3. Ô nhiễm nguồn nước dẫn đến chất lượng nước không bảo đảm các mục đích sử dụng nước làm cho nguồn nước có khả năng sử dụng bị khan hiếm, sự cạnh tranh trong dùng nước càng tăng cao. Để phòng, chống ô nhiễm, suy thoái nguồn nước, cải thiện chất lượng nước, góp phần giảm nhẹ khan hiếm nước, phải tiến hành các biện pháp bảo vệ tài nguyên nước và các hệ sinh thái thủy sinh và các biện pháp giải quyết đồng bộ trên phạm vi toàn lưu vực.

4. Ảnh hưởng của các hồ chứa ở thượng lưu tác động đến bồi xói lòng, bỡ bãi sông, bồi xói cửa sông và xâm nhập mặn vùng cửa sông.

Hiện nay, trên lưu vực sông Hồng – Thái Bình hầu hết đã có quy hoạch của các ngành khai thác, sử dụng nước như thủy lợi, thủy điện, nuôi trồng thủy sản, cấp nước sinh hoạt đô thị và nông thôn. Tuy nhiên, các quy hoạch này nhìn chung mới chỉ tập trung đáp ứng nhu cầu khai thác, sử dụng nước của từng ngành mà chưa xem xét đánh giá tổng thể, toàn diện tiềm năng nguồn nước, nhu cầu sử dụng nước của các ngành khác cũng như nhu cầu bảo đảm dòng chảy tối thiểu và duy trì hệ sinh thái thủy sinh.

Việc lập, tổ chức thực hiện quy hoạch của các ngành có hoạt động khai thác, sử dụng nước trên lưu vực sông đang được diễn ra đơn lẻ, thiếu tính tổng hợp, đa mục tiêu đã gây nên tình trạng mâu thuẫn giữa các đối tượng sử dụng nước. Ngoài ra, gần đây có một số đề xuất xây dựng các công trình trên sông Hồng (Dự án đầu tư xây dựng tuyến giao thông thủy xuyên Á trên sông Hồng kết hợp thủy điện) trong khi chưa có quy hoạch tài nguyên nước trên bình diện toàn lưu vực nên chưa đủ căn cứ, cơ sở để xem xét các đề xuất này. Cho nên, để hạn chế, giải quyết các vấn đề nêu trên, thì cần có một quy hoạch mang tính tổng hợp, toàn diện, đa ngành, đa lĩnh vực. 

Quy hoạch tài nguyên nước giai đoạn 2030-2050 với các mục tiêu:

– Bảo đảm thực hiện đúng chức năng đã xác định của các đoạn sông, nguồn nước trên các dòng chính của hệ thống sông Hồng – Thái Bình;

– Cơ bản giải quyết được mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng nước cho phát điện, giao thông thủy, nông nghiệp trên lưu vực sông Hồng – Thái Bình;

– Kiểm soát, phục hồi được tình trạng ô nhiễm các nguồn nước đang bị ô nhiễm nghiêm trọng ở các khu dân cư, khu đô thị lớn, khu công nghiệp quan trọng đạt mức độ cho phép; hạn chế tình trạng xâm nhập mặn vùng cửa sông và các tầng chứa nước trên lưu vực sông Hồng – Thái Bình;

– Chủ động về nguồn nước hiện có cho các mục đích sử dụng nước, có xét đến tác động của biến đổi khí hậu và việc khai thác, sử dụng nước ở phần thượng lưu ngoài lãnh thổ của hệ thống sông Hồng – Thái Bình;

– Bảo vệ nguồn sinh thủy, phát triển nguồn nước, duy trì các nguồn nước cần bảo tồn để đáp ứng được cho các nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội trên hệ thống sông Hồng – Thái Bình;

Cảnh báo, kiểm soát được tình trạng sạt lở bờ sông; sụt, lún đất và xâm nhập mặn do khai thác nước dưới đất trên lưu vực sông Hồng – Thái Bình. 

Các nội dung quy hoạch bao gồm:

1.Đánh giá hiện trạng: Khai thác, sử dụng nước, Bảo vệ TNN, Phòng chống tác hại

2. Xây dựng kịch bản, tầm nhìn Quy hoạch dài hạn đến 2050

3. Phân tích, dự báo: nhu cầu sử dụng nước, chất lượng nước, số lượng nước

4. Xây dựng phương án quy hoạch: phân bổ, bảo vệ, phòng chống

5. Đánh giá tác động các phương án quy hoạch: phát triển nguồn nước; xã hội – kinh tế- môi trường ;quản lí nguồn nước nội địa

6. Giải pháp quy hoạch

Để có thể khai thác, sử dụng và bảo vệ nguồn nước lưu vực sông Hồng – Thái Bình bảo đảm phát triển bền, cần thiết phải lập quy hoạch tài nguyên nước, trong đó nội dung về phân bổ nguồn nước cần đặc biệt quan tâm trong các phương án quy hoạch.

Quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông Hồng – Thái Bình là công cụ hỗ trợ quản lý tổng hợp tài nguyên nước, đồng thời làm cơ sở cho việc điều chỉnh và định hướng khai thác, sử dụng nước, bảo vệ tài nguyên nước của các ngành cũng như định hướng về hợp tác với các quốc gia láng giềng.