Hiện trạng thông tin dữ liệu về điều tra, đánh giá tài nguyên nước dưới đất tại đô thị Quảng Ngãi

Thời gian qua, nguồn nước ngầm trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đang ngày càng suy kiệt do các hoạt động khai thác nước ngầm quá mức của người dân. Vì vậy, việc điều tra, đánh giá trữ lượng, chất lượng nguồn nước dưới đất là rất cần thiết. Hiện nay có nhiều dự án đang thực hiện đồng bộ để đánh giá hiện trạng và đưa ra các giải pháp bảo vệ nguồn nước ngầm, trong đó có đề án “Bảo vệ nước dưới đất ở các đô thị lớn” – Đô thị Quảng Ngãi do Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia chủ trì thực hiện theo Quyết định số 3071/QĐ-BTNMT ngày 02 tháng 12 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường phê duyệt.

Vùng điều tra, đánh giá nguồn nước dưới đất bao gồm toàn bộ thành phố Quảng Ngãi và một phần các huyện Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành và Mộ Đức. Tổng diện tích là 643 km2.

Để sơ bộ xác định các tầng chứa nước, mối quan hệ thủy lực, đánh giá trữ lượng, chất lượng nước dưới đất, đơn vị đã tiến hành thu thập kết quả của những công trình nghiên cứu về nước dưới đất liên quan đến đô thị Quảng Ngãi trước đó, hiện trạng điều tra, đánh giá tài nguyên nước dưới đất vùng nghiên cứu như sau:

– Về cấu trúc các tầng chứa nước: Trên diện tích đô thị Quảng Ngãi (643 km2), chỉ có 2 tầng chứa nước: Tầng chứa nước lỗ hổng trầm tích Holocen (qh) và tầng chứa nước lỗ hổng tuổi Pleistocen (qp). Ngoài ra, các tầng chứa q, β(n2-qp) phân bố ven rìa phía bắc đô thị với diện tích không đáng kể.

– Về mối quan hệ thủy lực (nước mặt, nước dưới đất và giữa các tầng chứa nước): Các tầng chứa nước trầm tích Đệ tứ ở Quảng Ngãi có khả năng quan hệ thủy lực với nước mặt và quan hệ thủy lực với nhau, nhất là với sông Trà Khúc và sông Vệ. Song cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào đánh giá các mối quan hệ thủy lực này.

– Về trữ lượng các tầng chứa nước:

+ Theo Báo cáo Tìm kiếm nước dưới đất vùng Quảng Ngãi tỷ lệ 1:50.000, trong đó phần lớn diện tích nằm trong phạm vi đô thị (396 km2 khu vực ven biển phía đông) đã đánh giá trữ lượng như sau: Cấp B: 5.037 m3/ng; Cấp C1: 29.423 m3/ng; Cấp C2: 437.009 m3/ng.

+ Theo Báo cáo điều tra địa chất đô thị vùng đô thị Quảng Ngãi tỷ lệ 1:25.000, trên đó có 142 km2 ở khu vực phía đông thuộc phạm vi đô thị, trữ lượng tính toán được là 141.978 m3/ng.

– Về chất lượng nước dưới đất: Nhìn chung nước trong tầng chứa nước qh và qp là nước siêu nhạt đến mặn, có tổng độ khoáng hóa thay đổi từ 0,02g/l đến trên 10 g/l. Ở vùng cửa sông, ven biển nước dưới đất thường bị nước biển xâm nhập gây nhiễm mặn.

Như vậy, trong phạm vi đô thị Quảng Ngãi (643 km2): có 396 km2 đã điều tra tỷ lệ 1:50.000 bao gồm 142 km2 đã điều tra tỷ lệ 1/25.000 km2; đã thu thập được 39 lỗ khoan nghiên cứu cấu trúc địa chất thủy văn, bơm thí nghiệm đơn, chủ yếu nghiên cứu trọng tầng chứa nước qh (21 lỗ khoan) và qp (13 lỗ khoan).

Mạng quan trắc, giám sát tài nguyên nước dưới đất: Thuộc phạm vi đô thị Quảng Ngãi có 4 điểm quan trắc gồm 08 công trình quan trắc hoạt động từ 2011 đến nay trong các tầng chứa nước qh và qp thuộc mạng quan trắc quốc gia tài nguyên nước vùng duyên hải Nam Trung Bộ.

Sơ đồ địa chất thủy văn đô thị Quảng Ngãi

Trên đây là những thông tin, dữ liệu có thể kế thừa từ các kết quả điều tra giai đoạn trước, để có được nguồn cơ sở dữ liệu chi tiết về tài nguyên nước vùng đô thị Quảng Ngãi, đề án cần điều tra bổ sung các dữ liệu thông tin còn thiếu, vùng trắng tài liệu để xác định được sự phân bố các tầng chứa nước từ đó khoanh định và có giải pháp cần bảo vệ. Công tác khảo sát điều tra bổ sung trong phạm vi đô thị Quảng Ngãi (643km2) cụ thể như sau:

+ Khu vực phần phía đông đô thị có 396 km2 đã điều tra tỷ lệ 1:50.000 trong Đề án Tìm kiếm nước dưới đất vùng Quảng Ngãi, phần diện tích này bao trùm cả 142 km2 đã điều tra tỷ lệ 1/25.000 thuộc Đề án điều tra địa chất đô thị Quảng Ngãi nêu trên. Như vậy, trên phần diện tích chưa điều tra tỷ lệ 25.000 với diện tích là 254 km2, chỉ tiến hành phổ tra, điều tra bổ sung với mật độ 3 điểm/km2.

+ Phần diện tích còn lại phần phía tây với diện tích là 247 km2 mới được điều tra cơ bản tài nguyên nước ở tỷ lệ 1/200.000, cần tiến hành điều tra bổ sung với mật độ 6 điểm/km2 để đạt tỷ lệ điều tra 1/25.000 cho toàn vùng.

Hiện tại, trên phạm vi đô thị hiện trạng thông tin, dữ liệu về điều tra, đánh giá tài nguyên nước dưới đất chưa có số liệu đầy đủ, để phục vụ tốt cho mục tiêu, nhiệm vụ của đề án  cần phải điều tra, đánh giá cụ thể trong giai đoạn này. Đây là những vấn đề cần sớm cần được giải quyết nhằm phục vụ quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội vùng đô thị Quảng Ngãi.